Contents
- 1 Kinh Nghiệm về Một số giải pháp rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính cho học viên lớp 3 Chi Tiết
Kinh Nghiệm về Một số giải pháp rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính cho học viên lớp 3 Chi Tiết
Bạn đang tìm kiếm từ khóa Một số giải pháp rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính cho học viên lớp 3 được Update vào lúc : 2022-03-08 18:10:24 . Với phương châm chia sẻ Kinh Nghiệm Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi Read Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.
Trang web này tùy từng lệch giá từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm ngưng tính năng chặn quảng cáo cho website này.
Lượt xem: 51
Lượt xem: 41
Lượt xem: 157
Lượt xem: 146
Lượt xem: 186
Tóm tắt nội dung tài liệu
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH Lĩnh vực/ môn : Toán Cấp học : Tiểu học Năm học: 2022 – 2022
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH Năm học: 2022 – 2022
MỤC LỤC
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong tình hình hiện nay, giáo dục là một vấn đề được cả xã hội quan
tâm. Đảng và nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bậc học tiểu
học được coi là nền tảng của những bậc học. Quá trình học ở tiểu học là nền
móng cho học sinh có vốn kiến thức để học tiếp lên những lớp trên. Trong những
môn học mà học sinh học ở bậc tiểu học, môn Toán là bộ môn rất quan trọng.
Đây là môn học chiếm tương đối nhiều thời gian học của học sinh trong suốt
quá trình học phổ thông. Đây cũng là môn học có rất nhiều ứng dụng trong
thực tiễn cuộc sống. Cùng với những môn học khác, môn Toán góp phần hình
thành nhân cách cho học sinh. Ở bậc tiểu học, môn Toán cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban
đầu một cách tương đối có hệ thống về số tự nhiên, phân số, số thập phân,
những đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản; hình
thành những kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng
thiết thực trong đời sống; bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy
luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết vấn đề đơn
giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, chăm học và hứng
thú học tập toán, hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế
hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Quá trình cung cấp kiến thức toán học cho học sinh trong dạy học ở tiểu
học được chia thành hai giai đoạn thì nội dung toán học lớp 3 được coi là cầu
nối để học sinh học tiếp ở giai đoạn hai. Ở lớp 3, những em tiếp tục hoàn thiện
những kiến thức kĩ năng của giai đoạn một và chuẩn bị cho sự phát triển cao
hơn về kiến thức kĩ năng của giai đoạn hai ở lớp 4 và lớp 5. Trong chương
trình toán học ở lớp 3, mạch kiến thức về giải toán chiếm khoảng chừng 9% tổng
thời lượng của môn học nhưng lại vô cùng quan trọng đối với học sinh bởi:
bước đầu giúp học sinh làm quen giải toán hợp, nội dung này còn được học
kết hợp với nội dung dạy số học, hình học và bước đầu yêu cầu học sinh
biết tư duy, tìm tòi, sáng tạo khi biết vận dụng những bài toán đơn đã học để
giải toán. . . Đặc biệt hơn, với học sinh lớp 3, việc giải thành thạo những bài
toán bằng hai phép tính là vô cùng cần thiết bởi những kiến thức này chính là 4
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
cơ sở để học sinh vận dụng học ở giai đoạn hai khi giải những bài toán nhiều
hơn hai phép tính, những dạng toán điển hình. . . . Khả năng tư duy để tìm ra
những bước giải bài toán bằng hai phép tính ở lớp 3 tốt sẽ giúp những em dễ dàng
hơn khi giải những bài toán về tìm số trung bình cộng của những số, tìm hai số khi
biết tổng và hiệu của hai số, tìm hai số khi biết tổng số và tỉ số của hai số,
tìm hai số khi biết hiệu số và tỉ số của hai số, tính diện tích hình bình hành,
diện tích hình thoi ở lớp 4, giải toán về đại lượng tỉ lệ thuận, tỉ lệ nghịch,
một số bài toán có nội dung hình học ở lớp 5. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, không phải bất kì một vấn đề nào
trong sách giáo khoa hay nội dung kiến thức cần cung cấp cho học sinh mà
giáo viên đưa ra học sinh đều hiểu và vận dụng được ngay. Trong quá trình
dạy học, bằng tâm huyết nghề nghiệp và những kinh nghiệm đã đúc rút được
cho từng môn học ở mỗi khối lớp, cho từng mạch kiến thức hay từng bài dạy,
người giáo viên có thể có những biện pháp, những cách thức truyền đạt khác
nhau sao cho học sinh hiểu bài, hiểu sâu, nhớ lâu và biết vận dụng bài học
vào thực tế cuộc sống. Đó mới chính là cái đích cuối cùng của dạy học: học
để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình. Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn cho mình đề tài nghiên cứu về
“Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính ” trong
chương trình Toán 3. Việc chọn đề tài này giúp tôi hiểu sâu hơn về nội dung
dạy học giải toán ở lớp 3, những phương pháp và hình thức tổ chức giờ dạy về
giải toán ở lớp 3, những hướng phát triển cho một bài toán về giải toán ở lớp 3.
Từ đó, tôi sẽ vận dụng tốt hơn vào thực tiễn giảng dạy của mình. 5
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận Các bài tập về giải toán bằng hai phép tính thực chất là những bài tập yêu
cầu học sinh phải nắm được những bài toán đơn đã học và biết vận dụng những bài
toán đơn ấy để giải quyết những bài toán giải bằng hai phép tính từ việc suy
luận, thấy được mối liên hệ giữa hai phép tính đó để làm thành những bước giải
cho bài toán giải bằng hai phép tính. Tuy nhiên, để làm được những bài tập này,
những em phải nắm được mấu chốt của vấn đề là để giải quyết được yêu cầu
của bài cần xem xét điều chưa biết có liên quan thế nào với những dữ kiện đã
cho trong bài toán. Từ việc hiểu mấu chốt về những mối liên quan giữa cái đã
biết và cái cần tìm của bài toán đó, học sinh phải biết vận dụng những dạng toán
đã học với những kĩ năng tính toán mà những em có được khi học toán để thành lập
những bước giải cho bài toán nghĩa là những em đã giải quyết được yêu cầu của đề
bài. Việc xây dựng những bài tập về giải những bài toán giải bằng hai phép tính
dựa vào những kiến thức về giải toán có lời văn mà học sinh đã có khi học toán 1
, 2 và những dạng toán đơn mà những em được học trong chương trình môn Toán ở
lớp 3. Với lứa tuổi của học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh học lớp 3, những
em thường bắt chước hoặc ghi nhớ một cách máy móc. Việc học tập giúp những
em hình thành và phát triển ghi nhớ có ý nghĩa, biết lập luận để tìm ra sự liên
quan giữa dữ kiện bài toán cho biết và yêu cầu của bài. Những kiến thức những
em có được qua học tập môn Toán và được gắn liền với thực tiễn đời sống
sẽ được những em nhớ lâu, kích thích ở những em sự liên tưởng, tìm tòi, khám phá
và sáng tạo. Nhờ đó ghi nhớ của trẻ có ý nghĩa và chất lượng hơn. Những
khác biệt về nhận thức về khả năng tư duy của trẻ thường được biểu hiện rõ
nét trong việc suy luận và vận dụng kiến thức đã học vào thực tế. Ngày nay,
nhà trường hiện đại lấy học trò là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học,
học trò mới là chủ thể của quá trình học. Trẻ em ngày nay rất thông minh, 6
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
nhanh nhẹn trong việc nắm bắt cái mới, biết vận dụng kiến thức học trong
nhà trường vào thực tiễn đời sống rất nhanh. Bởi thế giáo dục cần trang bị
cho trẻ những kiến thức kĩ năng phù hợp với nhận thức của những em. Nói tóm lại: Quan điểm về xây dựng chương trình môn Toán phù hợp
với đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 3 là cơ sở khoa học cho việc soạn
thảo chương trình môn Toán 3 với những mạch nội dung về Số học, Đại lượng
và đo đại lượng, Yếu tố hình học, Giải toán. Trong đó, mạch kiến thức về
giải toán có nội dung giải bài toán bằng hai phép tính.
2. Cơ sở thực tiễn Trong thực tế, học sinh được tiếp xúc với giải toán có lời văn từ khi bắt
đầu hình thành phép cộng, phép trừ trong môn Toán ở lớp 1 qua những bài tập
có yêu cầu viết phép tính thích hợp dựa vào những hình ảnh cụ thể như: bên
trái có 1 quả bóng bay, bên phải có hai quả bóng bay hoặc trên cành có 3 con
chim đậu có 1 con chim nữa đang bay đến, … với yêu cầu ngày một tăng dần
như cho biết hình ảnh và viết sẵn những chữ số, yêu cầu học sinh điền thêm
dấu phép tính thích hợp; hoặc cho biết hình ảnh, yêu cầu học sinh tự viết
thành phép tính thích hợp. Khi học sinh lớp 1 đã thành thạo cộng, trừ những số
trong phạm vi 10, những em được học về “Bài toán có lời văn” với những dạng toán
về “gộp”, “thêm”, “bớt” và một số bài toán giải bằng phép tính trừ mà thực
chất đó chính là dạng toán “Tìm số hạng trong một tổng”. Ở lớp 2, cùng với
việc củng cố những bài toán có lời văn đã học ở lớp 1, những em đã được làm quen
và được luyện tập rất nhiều về giải những bài toán đơn thuộc những dạng toán
điển hình: Bài toán về nhiều hơn; Bài toán về ít hơn; So sánh hai số hơn
(kém) nhau bao nhiêu đơn vị; Các bài toán về “gộp những nhóm bằng nhau”; Các
bài toán về chia đều; Các bài toán về tìm thành phần trong phép tính khi được
học về tìm số hạng trong một tổng, tìm số bị trừ, tìm số trừ,… Lên đến lớp 3,
bên cạnh việc ôn tập, củng cố những dạng toán đã được học ở lớp 2, học sinh
được học thêm một số dạng toán đơn về gấp một số lên nhiều lần giảm đi
một số lần, tìm một trong những phần bằng nhau của một số, những bài toán liên
quan đến hình học như tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông. Đặc
biệt, những em được học “Bài toán giải bằng hai phép tính” mà mỗi phép tính
giải trong những bài toán này chính là phép tính để giải một trong những bài
toán đơn đã học. Việc học những bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 có vai 7
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
trò rất quan trọng đối với việc học tập môn Toán bởi những bài toán giải
bằng hai phép tính là cơ sở để học sinh vận dụng, suy luận khi những em học
tập ở giai đoạn hai để giải được những bài toán nhiều hơn hai phép tính và
vận dụng nó trong đời sống thực tế hàng ngày.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ Trong thực tế giảng dạy có những nội dung kiến thức mà giáo viên đưa
ra nhiều học sinh không hiểu được bản chất của nội dung đó mà chỉ áp dụng
một cách máy móc. Chính vì vậy nên khi có một nội dung nào đó có yêu cầu
cao hơn, đòi hỏi những em phải suy luận những em sẽ lúng túng, không biết suy
luận để tìm ra cách giải. Nội dung dạy giải bài toán bằng hai phép tính cũng
vậy, đây là nội dung mới mẻ và rất khó đối với học sinh. Đối với học sinh
lớp 3, khả năng suy luận của những em còn hạn chế, lần đầu tiên những em phải
giải nhũng bài toán đòi hỏi phải tư duy, suy luận nhiều. Khi giải những bài toán
đơn, việc tìm câu lời giải cho phép tính, đa số những em đều dựa vào câu hỏi của
bài toán nên khi giải những bài toán bằng hai phép tính, việc tìm câu lời giải
cho phép tính thứ nhất nhiều em còn hạn chế. Nhiều em còn sai khi ghi danh
số của những phép tính, đặc biệt là những bài toán mà danh số của hai phép tính
không giống nhau. Ở lớp 3, những bài toán giải bằng hai phép tính rất nhiều
dạng mà hầu như chẳng thể xếp những bài toán ấy thành dạng điển hình nào
nên việc giải những bài toán đó lại càng khó khăn với những em. Còn đối với giáo viên, dạy học sinh giải bài toán bằng hai phép tính đôi
khi cũng còn những hạn chế như chưa khắc sâu cho học sinh mỗi phép tính
giải trong bài chính là dạng toán đơn nào những em đã học, chưa hướng dẫn học
sinh mối quan hệ giữa những phép tính trong bài toán, câu hỏi để gợi ý học sinh
tìm bước giải còn chưa sát, chưa khái quát được những dạng toán giải bằng
hai phép tính, … Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể chỉ hướng dẫn
học sinh giải những bài toán bằng hai phép tính trong sách giáo khoa mà chưa
chú trọng đến việc khắc sâu dạng toán, chưa đưa ra được những hình thức
dạy học toán nhằm mục đích phát triển tư duy năng lực của học sinh, chưa đòi hỏi ở
những em sự tập trung suy nghĩ, tìm tòi, khám phá,.. nên nội dung dạy học còn
đơn điệu, tẻ nhạt. Chính vì vậy mà hiệu quả của việc giải toán còn có những
hạn chế nhất định.
III. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ 8
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải những bài toán đơn Các bài toán đơn học sinh được học bao gồm những bài toán giải bằng một
trong những phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Đây là những bài toán những em được học
trong chương trình môn Toán của những lớp 1, 3 và nửa đầu học kì 1 ở lớp 3.
Ngoài ra, những em còn được học khi giải những bài toán liên quan đến tính chu vi,
diện tích của hình chữ nhật, hình vuông. Các bài toán đơn mà học sinh đã học
đều là những bài toán thuộc những dạng toán điển hình. Có thể chia những bài toán
đơn thành những dạng như sau:
1.1. Các bài toán đơn giải bằng phép tính cộng Đây là những bài toán thuộc những dạng toán: Bài toán về gộp hai số; Bài toán về thêm một số đơn vị; Bài toán về nhiều hơn; Bài toán về tìm số bị trừ.
1.2. Các bài toán đơn giải bằng phép tính trừ Đây là những bài toán thuộc những dạng toán: Bài toán về bớt; Bài toán về ít hơn; Bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị; Bài toán về tìm số hạng trong một tổng; Bài toán về tìm số trừ.
1.3. Các bài toán đơn giải bằng phép tính nhân Đây là những bài toán thuộc những dạng toán: Bài toán về gộp những nhóm bằng nhau; Bài toán về gấp một số lên nhiều lần; Bài toán về tìm số bị chia; Bài toán về tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật, hình vuông khi đã
biết đầy đủ chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật hoặc biết độ dài cạnh
của hình vuông.
1.4. Các bài toán đơn giải bằng phép tính chia Đây là những bài toán thuộc những dạng toán: Bài toán về chia đều; Bài toán về chia thành những nhóm bằng nhau; 9
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Bài toán về giảm đi một số lần; Bài toán về tìm một trong những phần bằng nhau của một số; Bài toán về so sánh hai số gấp, kém nhau một số lần; Bài toán về tìm thừa số trong phép nhân; Bài toán về tìm số chia. Khi dạy học Toán có nội dung chứa bài toán có lời văn mà học sinh đã
được học ở những lớp 1, lớp 2, tôi luôn hướng dẫn những em tìm ra mối quan hệ
giữa những dữ kiện đã cho và yêu cầu cần tìm để những em nhớ lại xem bài toán đó
thuộc dạng toán nào đã học, để giải được bài toán đó thì cần sử dụng phép
tính nào, có những cách đặt câu lời giải cho phép tính đó như thế nào,… Ở
lớp 3, học sinh được ôn lại một số dạng toán đơn đã học như bài toán về
nhiều hơn, bài toán về ít hơn, bài toán về tìm số hạng trong một tổng, bài toán
về gộp hai số; bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị. Đặc
biệt, ở lớp 3, khi những em được học bảng nhân 6, bảng nhân 7, bảng nhân 8,
bảng nhân 9, những bảng chia 6, bảng chia 7, bảng chia 8, bảng chia 9 thì những em
đều được giải những bài toán đơn về gộp những nhóm bằng nhau, chia đều, chia
thành những nhóm bằng nhau. Các dạng toán này còn được củng cố khi học về
nhân số có 2; 3; 4; 5 chữ số với số có 1 chữ số và chia số có 2; 3; 4; 5 chữ số
cho số có 1 chữ số. Vì vậy, khi gặp những bài toán này, tôi đã vận dụng những
hiểu biết đã có của học sinh để những em tự tìm ra dạng toán và cách giải bài
toán. Chính từ việc gợi ý của giáo viên để củng cố, khắc sâu dạng toán mà
những em luôn có tâm thế phải suy nghĩ phải tìm tòi, phải đưa ra được cách giải
cho bài toán, từ đó những em sẽ nhớ lâu dạng toán đã học. Việc dạy học bằng
phương pháp gợi mở như trên, tôi đã giúp học sinh được rèn luyện, củng cố
kiến thức đồng thời cũng đã giúp những em lấy việc giải những bài toán có lời văn
làm phương tiện để phát triển tư duy. Còn khi dạy những dạng toán đơn mới ở lớp 3 như dạng toán về gấp một
số lên nhiều lần, tìm một trong những phần bằng nhau của một số, so sánh hai
số gấp hoặc kém nhau bao nhiêu lần, giảm đi một số lần, tôi đều hình thành
kiến thức mới cho những em từ những kiến thức đã học. Chẳng hạn như khi dạy bài “Gấp một số lên nhiều lần”, tôi đã hình
thành quy tắc từ kiến thức đã được học. Học sinh tự vẽ đoạn thẳng AB dài 10
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
2cm, tìm cách vẽ đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB, tìm cách tính
độ dài của đoạn thẳng CD. Từ những việc làm trên của học sinh, chính những
em đã tự tìm ra cách gấp 2cm lên 3 lần, tự lấy được ví dụ về gấp một số nào
đó lên một số lần rồi tìm ra quy tắc gấp một số lên nhiều lần. Sau mỗi dạng toán mà học sinh mới được học, tôi đều cho học sinh
luyện tập củng cố kiến thức qua những bài luyện tập trong sách giáo khoa và
trong những tiết dạy ở buổi hai. Ngoài ra, tôi còn cho học sinh củng cố mỗi dạng
toán bằng những bài toán ngược để những em tránh bị nhầm lẫn. Ví dụ: Để củng cố dạng toán “Gấp một số lên nhiều lần” ngoài những bài
toán để củng cố kiến thức đơn thuần, tôi cho học sinh làm thêm những bài
toán như: Mảnh vải hoa dài 15m và dài bằng mảnh vải xanh. Hỏi mảnh vải
xanh dài bao nhiêu mét? Bằng phương pháp dạy học gợi mở, phương pháp kiến tạo và luyện tập
với nhiều hình thức tổ chức khác nhau như trên, tôi đã giúp học sinh hình
thành, khắc sâu những dạng toán đơn đã học, những em biết lấy giải toán làm điểm
xuất phát để tạo động cơ hình thành kiến thức mới, làm phương tiện để củng
cố kiến thức và phát triển năng lực tư duy. Đây cũng chính là những vấn đề
rất cần thiết trong việc dạy học “Bài toán giải bằng hai phép tính” sau này.
2. Hướng dẫn học sinh giải những bài toán có hai lần đáp số Các bài toán có hai lần đáp số thực chất là những bài toán mà có hai câu
hỏi, trong đó bao giờ câu hỏi thứ hai cũng có liên quan đến câu hỏi thứ nhất,
đó là muốn giải được bài toán theo câu hỏi thứ hai thì phải làm được bài toán
theo câu hỏi thứ nhất. Ví dụ: Dạy về cộng, trừ những số có ba chữ số (không nhớ) có bài toán: Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Hai có ít hơn khối lớp Một 32
học sinh Hỏi khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh? (Bài tập 3 Trang 4 SGK
Toán 3). Với yêu cầu trên của đề bài mới chỉ củng cố được cách trừ hai số có ba
chữ số trường hợp không nhớ nhưng muốn củng cố được cả cách cộng hai
số có ba chữ số, tôi yêu cầu học sinh đặt thêm cho bài toán một câu hỏi nữa,
có thể gợi ý rõ hơn là để giải bài toán theo câu hỏi của em thì em phải làm
đúng bài toán theo yêu cầu của câu hỏi đã có. Vì vậy, học sinh đã chuyển bài
toán trên thành bài toán như sau: 11
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Hai có ít hơn khối lớp Một 32
học sinh Hỏi: a) Khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh? b) Cả hai khối lớp có bao nhiêu học sinh? Hoặc khi củng cố dạng toán về “Tìm một trong những phần bằng nhau của
một số”, học sinh luyện tập bài toán: Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được số vải đó. Hỏi cửa hàng
đã bán được mấy mét vải xanh? ( Bài tập 2 Trang 26 SGK Toán 3) Cũng với cách làm như trên, tôi đã hướng dẫn học sinh đặt thêm cho bài
toán câu hỏi: Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được số vải đó. Hỏi: a) Cửa hàng đã bán được mấy mét vải xanh? b) Cửa hàng còn lại bao nhiêu mét vải xanh? Hoặc khi củng cố dạng toán “Gấp một số lên nhiều lần” có bài tập: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi
mẹ hái được bao nhiêu quả cam? ( Bài tập 2 Trang 33 SGK Toán 3) Học sinh của tôi đã tự đặt thêm cho bài toán một câu hỏi nữa để bài toán
có hai câu hỏi như sau: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi: a) Mẹ hái được bao nhiêu quả cam? b) Cả hai mẹ con hái được bao nhiêu quả cam? Bằng cách hướng dẫn học sinh đặt thêm câu hỏi cho bài toán, ngoài việc
củng cố kiến thức mới học, tôi đã hướng dẫn những em củng cố thêm được
những kiến thức khác, đồng thời đã giúp học sinh phát huy tính sáng tạo, phát
triển năng lực tư duy. Biện pháp này tôi thường tiến hành tuy nhiên tuy nhiên, đồng
thời với biện pháp thứ nhất, tôi thấy hiệu quả rất rõ rệt, học sinh nắm chắc
hơn những dạng toán đơn. Việc cho học sinh làm quen với những bài toán có hai câu hỏi như trên
thực tế là tôi đã cho học sinh làm quen với những bài toán giải bằng hai phép
tính. Đây chính là những bài toán làm bước chuẩn bị cho học sinh học giải
toán bằng hai phép tính sau này. 12
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Nói tóm lại: Cả hai biện pháp tôi đã thực hiện như trên đều là những
bước chuẩn bị cần thiết để hình thành và hướng dẫn học sinh tìm hướng giải
cho những bài toán giải bằng hai phép tính.
3. Hướng dẫn học sinh hiểu thế nào là bài toán giải bằng hai phép tính Tôi đã tiến hành giúp học sinh hiểu về bài toán giải bằng hai phép tính
qua những tiết dạy bài mới về “Bài toán giải bằng hai phép tính” (tiết 50 và tiết
51)
3.1.Bài “Bài toán giải bằng hai phép tính” (Tiết 50 Trang 50SGK Toán 3) Để học sinh hiểu thế nào là một bài toán giải bằng hai phép tính, tôi đã
hướng dẫn học sinh tự hình thành bài toán và những bước giải trên cơ sở từ hai
bài toán đơn đã học. Tiết dạy được mô tả như sau: * Xác định kiến thức kĩ năng của bài: Học sinh làm quen với bài toán giải bằng hai phép tính; bước đầu biết
tìm cách giải và trình bày bài giải cho bài toán; biết tìm lời giải cho mỗi phép
tính một cách hợp lí, có thể nêu được câu lời giải cho mỗi phép tính bằng
những cách khác nhau. *Tổ chức những hoạt động dạy học:
a. Kiểm tra bài cũ Giải bài toán sau: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi
hàng dưới có mấy cái kèn? 1 HS lên bảng tóm tắt và trình bày bài giải, HS dưới lớp làm bài vào vở
nháp GV hướng dẫn HS nhận xét bài của HS.
b. Hướng dẫn học sinh hình thành và tìm hướng giải bài toán bằng hai phép tính Từ bài toán trong phần kiểm tra bài cũ trên, tôi yêu cầu HS đặt thêm
một câu hỏi nữa cho bài toán và trình bày cách giải của câu hỏi đó. Chắc chắn
HS sẽ đặt câu hỏi như sau: Hỏi cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn? (bởi việc
làm này tôi đã tiến hành thường xuyên như tôi đã trình bày ở biện pháp thứ
hai). Lúc đó bài toán như sau: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi: a) Hàng dưới có mấy cái kèn? 13
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính b) Cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn? Từ bài toán có hai câu hỏi này mà HS đã trình bày được cách giải, tôi
nêu vấn đề: Bỏ câu hỏi thứ nhất đi, bài toán chỉ còn một câu hỏi 2. HS đọc bài toán như sau: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi
cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn? Tôi hướng dẫn HS dựa vào bài toán có hai câu hỏi ở trên (chính là bài
toán có 2 lần đáp số), nêu cách giải bài toán mới này. Cụ thể, tôi hướng dẫn
HS bằng một số câu hỏi: Câu hỏi 1 : Muốn tìm số kèn ở cả hai hàng, những em cần biết thêm số kèn
có ở hàng nào? GV kết hợp ghi: Tìm số cái kèn ở hàng dưới : ? cái Tìm số cái kèn ở cả hai hàng: ? cái Câu hỏi 2: Tìm số kèn ở hàng dưới, em đã làm như thế nào? Câu hỏi 3: Tìm số kèn có ở cả hai hàng em đã làm như thế nào? GV kết hợp ghi: Tìm số cái kèn ở hàng dưới : ? cái 3 + 2 = 5 (cái kèn) Tìm số cái ken ở cả hai hàng: ? cái 3 + 5 : g (cái kèn) Như vậy, cùng với việc đặt những câu hỏi của GV, HS nêu ý kiến trả lời,
tôi đã thiết lập cho HS việc đi tìm những bước giải của bài toán bằng sơ đồ phân
tích đi lên. Từ sơ đồ phân tích đi lên ở trên, HS dựa vào đó có thể nhận ra những
bước giải và phép tính giải bài toán. Từ những bước giải của bài toán đã được thiết lập như trên, tôi giới thiệu
cho HS biết đây là bài toán giải bằng hai phép tính và đặc điểm của bài toán
giải bằng hai phép tính: chỉ có 1 đáp số là kết quả của phép tính thứ hai. Từ sơ đồ phân tích đi lên này, tôi gợi ý để HS nhận ra muốn giải được
bài toán, cần đặt cho mình câu hỏi phụ: + Để tìm được đáp số của bài toán cần tìm thêm gì? (hoặc biết thêm
gì?). 14
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính + Để trả lời được câu hỏi mà mình vừa đặt ra cần vận dụng kiến thức
nào đã học (dạng toán đơn nào đã học). Trả lời được câu hỏi này là bước giải
thứ nhất của bài . + Để trả lời được câu hỏi của bài toán cần vận dụng kiến thức nào đã
học (dạng toán đơn nào đã học). Đây là bước giải thứ hai của bài toán. Với mỗi phép tính trên, tôi đều yêu cầu HS diễn đạt câu lời giải mỗi
phép tính bằng một vài cách khác nhau.
c. Hướng dẫn HS vận dụng để giải bài toán tương tự Tôi cho HS vận dụng những bước giải bài toán mới được lập từ những dữ
kiện của bài toán 1 trong SGK để từ phân tích, thiết lập để tìm những nước giải
của bài toán 2 trong SGK.
d. Hướng dẫn HS luyện tập Nội dung luyện tập của tiết học này gồm 3 bài tập. Với bài tập 1 và bài
tập 2, tôi đều cho HS phân tích đề bài, tự đặt câu hỏi phụ để tìm bước giải
thứ nhất, tìm câu trả lời cho câu hỏi phụ mà mình tự đặt và câu hỏi của bài
toán cần vận dụng những dạng toán nào đã học. Riêng bài tập số 3, với
những HS chậm, tôi đưa thêm một số bài toán cho HS chọn bài toán thích hợp
với tóm tắt đã cho. Bài 1: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5 kg. Hỏi cả hai
bao nặng bao nhiêu kilôgam? Bài 2: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5 kg. Hỏi bao ngô
nặng bao nhiêu kilôgam? Bài 3.: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nhẹ hơn bao gạo 5 kg. Hỏi cả hai
bao nặng bao nhiêu kilôgam? Khi học sinh đưa ra cách chọn bài toán phù hợp với tóm tắt, tôi đều phân
tích cho học sinh hiểu cách chọn nào đúng, cách chọn nào sai và tại sao lại
đúng, hoặc tại sao lại là sai? Khi đã chọn được đúng bài toán, học sinh sẽ giải
được bài toán theo hướng phân tích đi lên để tìm cách giải như tôi đã hướng
dẫn ở trên.
e. Củng cố Khi học sinh đã nắm được thế nào là bài toán giải bằng hai phép tính,
cách đặt câu hỏi phụ để tìm bước giải thứ nhất, xác định dạng toán cho từng 15
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
bước giải, cuối tiết học tôi cho học sinh nhận xét những phép tính dùng để giải
những bài toán bằng hai phép tính vừa học ở trên. Khi đó, tôi khắc sâu cho
học sinh hiểu đây là những bài toán giải bằng hai phép tính cộng, hoặc phép
tính trừ và phép tính cộng. Mục đích của việc làm này là hình thành những dạng
toán giải bằng hai phép tính mà những em sẽ được học tiếp trong chương trình
môn toán lớp 3.
3.2. Bài “Bài toán giải bằng hai phép tính” (Tiết 51Trang 51SGK Toán 3) Với tiết dạy này, tôi tiến hành như sau:
* Xác định kiến thức kĩ năng của bài: HS biết giải và trình bày bài giải của những bài toán giải bằng hai phép tính;
rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính.
* Tổ chức những hoạt động dạy học:
a. Kiểm tra bài cũ Nội dung kiểm tra bài cũ là yêu cầu giải 1 hoặc 2 bài toán giải bằng hai
phép tính thuộc dạng toán giải bằng hai phép tính mà học sinh đã được học ở
tiết 50.
b. Hướng dẫn bài toán mẫu Tôi không đưa ngay bài toán mẫu như SGK mà đưa một số dữ kiện như
sau: Một cửa hàng ngày thứ nhất bán được 7 xe đạp, ngày thứ hai bán được
số xe đạp gấp đôi ngày thứ nhất. Tôi yêu cầu học sinh tự đặt câu hỏi để những dữ kiện đã cho trên trở thành
một bài toán giải bằng hai phép tính. Khi học sinh đã đặt đúng câu hỏi, tôi lại
tiến hành hướng dẫn học sinh tìm hướng giải cho bài toán bằng đặt câu hỏi
phụ kết hợp với thiết lập sơ đồ phân tích đi lên, đưa bài toán thành hai bài
toán đơn đã học để giải bài toán. Số xe đạp bán ngày thứ hai: ? xe 7 x 2 = 14 (xe đạp) Số xe đạp bán trong hai ngày: ? xe 7 + 14 = 21 (xe đạp) Cuối cùng, tôi yêu cầu học sinh xác định xem bài toán trên được giải
bằng những phép tính nào, mỗi phép tính để giải bài toán liên quan đến những
dạng toán đơn nào.
c. Luyện tập 16
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Nội dung luyện tập trong tiết này cũng gồm 3 bài tập. Với những bài tập 1
và bài tập 2, tôi tổ chức cho học sinh tự tìm những bước giải và giải bài toán rồi
xác định từng bước giải của mỗi bài toán thuộc dạng toán nào đã học. Còn bài
tập số 3 chỉ là bài toán về số học nhằm mục đích giúp củng cố học sinh kiến thức về
gấp một số lên nhiều lần, thêm một số đơn vị, bớt một số đơn vị, … nhưng
để giúp học sinh củng cố kiến thức về giải bài toán bằng hai phép tính, tôi đã
đưa ra một số bài toán yêu cầu học sinh chọn bài toán phù hợp với sơ đồ có
trong bài, nêu cách giải mỗi bài toán đó. Bài toán 1: Lan gấp được 6 cái thuyền, số thuyền của Nga gấp được gấp
đôi số thuyền của Lan, Bình gấp được ít hơn Nga 2 cái thuyền. Hỏi Bình gấp
được bao nhiêu cái thuyền? Bài toán 2: An có 56 viên bi. Sau khi chia cho những bạn, số bi của An bị
giảm đi 7 lần. Tùng lại cho An thêm 7 viên bi nữa. Hỏi lúc này An có bao
nhiêu viên bi?
d. Củng cố Cuối tiết học, tôi yêu cầu HS nhắc lại những bài toán giải bằng hai phép
tính đã học được giải bằng những phép tính nào, liên quan đến những dạng
toán đơn nào đã học để khắc sâu kiến thức cho những em. Như vậy bằng phương pháp dạy học kiến tạo, bằng hệ thống câu hỏi
gợi mở, tôi đã hướng dẫn HS vận dụng kiến thức đã học để hình thành bài
toán giải bằng hai phép tính từ việc gộp bài toán có 2 lần đáp số, biết cách
phân tích để tiện hướng giải của bài toán giải bằng hai phép tính là tìm ra mối
quan hệ giữa những dữ kiện đã cho và dữ kiện cần tìm, đưa chúng về hai bài
toán đơn đã học và vận dụng kiến thức đã học để giải quyết từng bài toán
đơn đó. Nói tóm lại: Nếu học sinh lớp 3 không thấy được mối quan hệ giữa những
dữ kiện trong bài toán thì việc tìm câu trả lời cho câu hỏi phụ sẽ rất khó khăn.
Nếu học sinh lớp 3 không nắm chắc những dạng toán giải bằng một phép tính
thì việc tiến hành những bước giải cho bài toán cũng khó mà thành công. Còn
nếu kĩ năng tính toán của học sinh lớp 3 còn hạn chế thì việc giải những bài toán
bằng hai phép tính sẽ rất chậm chạp và có thể đáp số của bài toán sẽ không
chính xác. 17
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Điều này càng chứng tỏ rằng giải toán bằng hai phép tính là bài toán
kiểm tra tổng hợp nhiều kiến thức toán học của học sinh.
4. Hướng dẫn học sinh nắm chắc một số dạng toán giải bằng hai phép
tính qua luyện tập Từ sau bài “Bài toán giải bằng hai phép tính”, học sinh được luyện tập
một số bài toán giải bằng hai phép tính. Nội dung giải toán này được luyện
tập rất nhiều trong suốt quá trình học Toán 3 của học sinh. Những bài toán
giải bằng hai phép tính này không được sắp xếp thành những dạng cụ thể nào
mà chúng chứa một hoặc cả hai phép tính được dùng để củng cố khắc sâu
kiến thức của một bài mới nào đó như nhân, chia số có 3, 4, 5 chữ số với số
có một chữ số; củng cố những đơn vị đo đại lượng; … Nhiều bài không thuộc
một dạng toán điển hình nào mà để khái quát chúng thành dạng nào đó, trong
quá trình luyện tập, học sinh phải tìm ra những bước giải mỗi bài toán ấy bằng
cách đưa chúng về hai bài toán đơn như tôi đã hướng dẫn học sinh ở trên. Chẳng hạn: Bài tập 1 (trang 52): Tóm tắt Có : 45 ô tô Rời bến: 18 ô tô và 17 ô tô Còn lại : … ô tô? Khi hướng dẫn HS đặt câu hỏi phụ để tìm cách giải bài toán, những em sẽ
đưa ra hai cách trả lời khác nhau. Với mỗi cách trả lời trên, tôi hướng dẫn HS
tìm ra một cách giải. Từ mỗi cách giải đó, tôi đều hướng dẫn HS nhận xét để
rút ra bài toán được giải bằng những phép tính nào, mỗi phép tính đó là dạng
toán đơn nào đã học. Vậy chúng ta có thể hệ thống những bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp
3 như sau:
4.1. Những bài toán không điển hình
4.1.1. Bài toán giải bằng hai phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: Bài toán về nhiều hơn, gộp hai số; Bài toán về thêm 2 lần liên tiếp; Bài toán về gộp 3 số hạng.
4.1.2. Bài toán giải bằng hai phép tính trừ 18
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: Bài toán về bớt 2 lần liên tiếp; Bài toán về ít hơn Bài toán về hơn, kém một số đơn vị.
4.1.3. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính trừ Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, bớt đi một số đơn vị;
4.1.4. Bài toán giải bằng phép tính trừ và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài
toán về bớt một số đơn vị, chia đều.
4.1.5. Bài toán giải bằng phép tính cộng và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về gộp hai số, chia đều Bài toán về nhiều hơn, so sánh số lớn gấp số bé bao nhiêu lần.
4.1.6. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, gộp hai số (một số là kết quả
của gộp những nhóm đó)
4.1.7. Bài toán giải bằng hai phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài
toán về chia đều, chia thành những phần bằng nhau.
4.1.8. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài
toán về gộp những nhóm bằng nhau, chia đều
4.1.9.Bài toán giải bằng phép tính chia và phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Tìm
một trong những phần bằng nhau của một số; gộp hai số.
4.2. Những bài toán điển hình Ngoài những dạng toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 được thống kê ở trên
thì học sinh còn được học một số dạng toán sau:
4.2.1. Bài toán có phép chia có dư
4.2.2. Các bài toán trên quan đến hình học
4.2.3. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị 19
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Khi dạy học sinh giải những bài toán bằng hai phép tính có phép chia có
dư, tôi khắc sâu cho học sinh: Trong câu hỏi thường có từ “ít nhất” và khi
trình bày bài giải thì phép tính thứ hai là phép cộng mà số hạng thứ nhất là
thương của phép chia còn số hạng thứ hai là 1 . Khi dạy những bài toán giải bằng hai phép tính có liên quan đến hình học
thì tôi lưu ý học sinh: Phép tính thứ nhất thường đi tìm một trong những yếu tố
chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật hoặc cạnh của hình vuông sẽ liên
quan đến một trong những dạng toán đơn đã học, phép tính thứ hai thường là
áp dụng cách tính chu vi, diện tích của một hình. Tuy nhiên, có một số bài
phép tính thứ nhất đi tìm một trong những yếu tố chiều dài, chiều rộng của hình
chữ nhật hoặc cạnh của hình vuông lại dựa vào chu vi hoặc diện tích cho
trước của hình đó. Khi dạy những bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi lưu ý học sinh: Các
bài toán này chỉ giải bằng phép tính nhân, chia hoặc bằng cả hai phép chia.
Khi hướng dẫn học sinh hình thành những bước giải tôi cũng hướng dẫn đưa
những bài toán thuộc dạng toán này thành hai bài toán đơn đã học và hướng
dẫn những em phân biệt hai kiểu bài trong dạng toán “Bài toán liên quan đến rút
về đơn vị” để những em không bị nhầm lẫn khi giải dạng toán này. Như vậy, bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 quả là rất phong phú.
Đó là những nội dung hay nhưng đồng thời cũng khó đối với cả giáo viên và
học sinh trong quá trình dạy học. Song với việc tiến hành luyện tập giải
toán như trên, tôi đã khắc sâu cách giải từng bài toán bằng cách thiết lập những
bước giải, hướng dẫn học sinh tìm mối quan hệ giữa những dữ kiện của bài
toán, củng cố những dạng toán đơn đã học, đôi khi còn dùng cả những cách củng
cố có thể cho là máy móc như dạng bài liên quan đến phép chia có dư, hình
học, bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Nhưng những việc tôi đã tiến hành
như trên tôi thực sự thấy hiệu quả, học sinh của tôi giải toán bằng hai phép
tính tốt hơn, biết tìm những bước giải, xác định được những phép tính để giải bài
toán. Như vậy, việc học và luyện tập giải những bài toán bằng hai phép tính đã
đạt được những mục đích như rèn kĩ năng vận dụng tri thức, củng cố tri thức,
phát triển năng lực tư duy.
5. Tổ chức cho học sinh luyện tập giải toán trong những tiết dạy ở buổi hai 20
Page 2
YOMEDIA
Mục đích của sáng tạo độc lạ này là giúp hiểu sâu hơn về nội dung dạy học giải toán ở lớp 3, những phương pháp và hình thức tổ chức triển khai giờ dạy về giải toán ở lớp 3, những hướng tăng trưởng cho một bài toán về giải toán ở lớp 3.
04-03-2022 61 13
Download
Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2022 TaiLieu.VN. All rights reserved.
://.youtube/watch?v=opC_8Fn71So
Review Một số giải pháp rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính cho học viên lớp 3 ?
Bạn vừa đọc tài liệu Với Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về Video Một số giải pháp rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính cho học viên lớp 3 tiên tiến và phát triển nhất
You đang tìm một số trong những Chia Sẻ Link Cập nhật Một số giải pháp rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính cho học viên lớp 3 Free.
Thảo Luận vướng mắc về Một số giải pháp rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính cho học viên lớp 3
Nếu sau khi đọc nội dung bài viết Một số giải pháp rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính cho học viên lớp 3 vẫn chưa hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha
#Một #số #biện #pháp #rèn #kĩ #năng #giải #bài #toán #bằng #hai #phép #tính #cho #học #sinh #lớp