Mẹo về Gia cát lượng mất ở đâu Mới Nhất

Quý khách đang tìm kiếm từ khóa Gia cát lượng mất ở đâu được Cập Nhật vào lúc : 2022-03-13 18:30:30 . Với phương châm chia sẻ Mẹo về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết Mới Nhất. Nếu sau khi đọc nội dung bài viết vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.

Khảng khái tiên sinh bão tất thi

Mãn hoài u tư hữu thùy tri.

Vu kim nhất phiền sương đài thạch

Thắng tự Tương Dương trụy lệ bi.

(Vương Việt)

Tào Tháo, Khổng Minh, Chu Du cùng xuất thân thư sinh, cùng vì đại loạn mà nhẩy lên vũ đài chính trị. Cả ba cùng ở vị thế cao nhất, nhưng riêng Khổng Minh vượt hẳn hai người kia về phong độ nho nhã thư sinh.

Cái thái độ nho nhã thư sinh ấy qua ngòi bút La Quán Trung càng trở nên tuyệt diệu, khiến người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa đoạn Huyền Đức tam cố thảo lư tưởng như cũng tắm gội khí chất thư sinh đó.

“Hôm sau, Huyền Đức cùng Quan Trương và bọn tùy tùng đến Long Trung, nhìn về phía xa xa đã thấy mấy người đương cầy bừa ở sườn núi miệng hát rằng:

Giời xanh như tán lọng tròn.

Đất kia trằn trặn như bàn cờ vuông

Người đi đen trắng đôi phường.

Kẻ đi người lại tranh đường nhục vinh

Kẻ vinh chỉ biết mình sung sướng

Người nhục kia vất vưởng vất vơ

Nam Dương có bậc ẩn cư

Nằm co ngủ kỹ thờ ơ việc đời.

Huyền Đức nghe hát, kìm ngựa gọi mấy người nông phu lại hỏi: Ai làm ra bài ca ấy?

Nông phu đáp: Bài ấy của Ngọa Long tiên sinh làm ra.

Huyền Đức hỏi: nhà Ngọa Long tiên sinh ở đâu?

Nông phu đáp: ở mé Nam này, có một gò cao, gọi là gò Ngọa Long. Trước gò, trong quãng rừng thưa, có một chiếc lều tranh, đấy là nhà Gia Cát tiên sinh.

Huyền Đức cảm ơn, giắt ngựa tăng trưởng. Đi không được vài dặm, xa xa đã thấy gò Ngọa Long, quả nhiên phong cảnh khác thường.

Cách hai mươi dặm Tương dương thành.

Một dẫy gò cao, suối lượn quanh.

Nước chẩy ầm ầm phơi đá trắng.

Gò cao chót vót ngất mây xanh.

Hình như rồng cuốn trên tảng đá.

Phượng hoàng đậu dưới bóng thư thả.

Cửa phên khép kín nhà tranh.

Cao sĩ nằm khàn bền vững dạ.

Bình phong dẫy trúc um tùm lá.

Bốn mùa hoa rụng nức mùi hương.

Đầu giường chồng chất nhiều sách lạ.

Trong nhà lui tới không người thường.

Vượn kia dâng quả gõ cửa ngoài.

Hạc kia đêm thanh nghe đọc sách.

Túi đàn thêu gấm gác đầu bàn.

Thanh kiếm vẩy rồng treo trước vách

Tiên sinh trong lều rất thanh nhàn.

Khi nhàn cấy cầy cũng không can

Chỉ đợi sấm xuân tỉnh giấc mộng.

Gọi to một tiếng thiên hạ an.

Huyền Đức đến đầu nhà xuống ngựa, lại gõ cửa. Có tiểu đồng ra hỏi. Huyền Đức nói:

Tôi là Hoàng thúc Lưu Bị, Hán Tả tướng quân, Nghi Thành đình hầu, châu mục Dự Châu lại đây bái kiến tiên sinh.

Tiểu đồng nói: Tên ông dài lắm không nhớ được.

Huyền Đức nói: Em cứ vào nói có Lưu Bị lại hầu.

Tiểu đồng nói: Tiên sinh sớm ngày hôm nay vừa đi dạo vắng.

Huyền Đức hỏi: đi dạo đâu?

Tiểu đồng đáp: tiên sinh tôi nay đây mai đó, không biết đi đâu.

Huyền Đức hỏi: bao giờ tiên sinh về?

Tiểu đồng nói: khi đi dăm ba bữa, khi thì mười hai hôm, không biết chừng.

Huyền Đức lấy làm buồn rầu, Trương Phi nói: hắn không còn nhà thì về quách cho xong.

Huyền Đức nói: hãy đợi một lát nữa.

Vân Trường lại nói: Không bằng hãy về rồi sai người lại nghe tin tức.

Huyền Đức nghe theo và dặn lại chú tiểu đồng: bao giờ tiên sinh về, trình hộ rằng có Lưu Bị lại hầu nhé. Nói rồi lên ngựa đi được vài dặm, ngoảnh lại xem phong cảnh Long Trung quả nhiên núi không đảm bảo nhưng thanh nhã, nước không sâu mà trong suốt, đất chẳng lấy gì làm to tát mà rậm rạp. Vượn hạc quấn quít, thông trúc um tùm, ngắm mãi không chán.

Ba người về đến Tân Dã. Được vài ngày Huyền Đức sai người đi thăm dò xem Khổng Minh đã về nhà chưa. Một hôm, người thăm dò về báo Ngọa Long tiên sinh đã về. Huyền Đức sai người thắng ngựa. Trương Phi nói: Khổng Minh chỉ là một tên thôn phu quèn, hà tất kha kha phải thân đến. Cứ sai người đi gọi cũng khá được.

Huyền Đức mắng rằng: Em há không nhớ lời Mạnh Tử nói: “Muốn cầu người hiền mà không biết đạo, khác gì muốn cho những người dân ta vào trong nhà mình và lại ngừng hoạt động lại”. Khổng Minh là bậc đại hiền thời nay, cho đi gọi sao được?

Bèn lên ngựa đến Long Trung. Quan Trương cũng theo đi.

Bấy giờ đang thời tiết mùa Đông, khí trời rét buốt, mây xám nghịt trời. Ba người chưa đi được vài dặm, tự nhiên trời nổi gió mùa, tuyết bay phơi phới, núi tựa ngọc gieo, rừng như bạc rắc.

Trương Phi nói: trời rét, đất ngừng hoạt động, đánh nhau còn chẳng được lại phải lận đận đi cầu người vô ích làm chi. Không bằng trở về Tân Dã, tội gì mà dầm mưa dãi tuyết thế này.

Huyền Đức nói: chính ta muốn làm cho Khổng Minh nghe biết lòng nhiệt thành của ta. Các em sợ rét thì hãy về trước.

Phi nói: chết cũng chẳng ngại, ngại chi rét. Chỉ sợ kha kha uổng công vất vả thôi.

Huyền Đức nói: “em chớ nói nhiều lời. Hãy theo ta đi”. Gần đến nhà tranh, chợt nghe thấy tiếng ca trong một quán rượu cạnh bên đường, Huyền Đức dừng ngựa lại nghe, lời ca rằng:

Công danh tráng sĩ muộn thay

Than ôi lâu chẳng gặp ngày dương xuân

Người chẳng thấy lão nhân Đông hải

Lìa bụi gai theo với vua Văn

Chư hầu bát bách lai thần

Gặp điềm cá trắng Mạnh Tân sang đò

Mục nguyên một trận đánh to

Công danh lừng lẫy ai so được tầy

Cao Dương lại sở hữu thầy hay rượu

Vái Cao Hoàng theo điệu làm tôi

Bàn mưu vương bá kỳ tài

Lọt tai cũng phải mời ai lên ngồi.

Thành Tề hạ bẩy mươi hai

Thế gian há dễ mấy ai nối mình

Hai người không gặp phận hanh hao

Đến nay ai biết là danh phận gì

Một người hát xong, người khác lại hát tiếp luôn:

Vua ta vung lưỡi gươm dẹp loạn

Gây cơ đồ Hán bốn trăm năm

Đời Hoàn Linh vận lửa tắt ngầm

Gian thần tặc tử tay cầm quyền to

Chốn ngự tòa, rắn bò điềm gở

Nơi ngọc đường, rồng đổ yêu ma

Bốn phương trộm giặc đổ ra

Gian hùng lũ lượt theo đà múa may

Chúng ta chỉ vỗ tay nói tếu

Buồn ra hàng chén rượu cho vui

Một mình sung sướng thảnh thơi

Chẳng cần tiếng để muôn đời làm chi.

Hai người hát xong, vỗ tay cười ầm cả lên. Huyền Đức nói: Có lẽ Ngọa Long ở trong này. Liền xuống ngựa bước vào, hai người đương tựa bàn, đối nhau uống rượu, một người mặt trắng râu dài, một người mặt mũi khôi ngô. Huyền Đức vái rồi hỏi:

– Thưa hai ông, ông nào là Ngọa Long tiên sinh?

Người râu dài lại hỏi:

– Ông là ai, tìm Ngọa Long tiên sinh để làm gì?

Huyền Đức đáp: thưa tôi là Lưu Bị, muốn tìm tiên sinh để cầu mưu giúp đời, yên dân.

Người râu dài nói: Chúng tôi không phải là Ngọa Long mà là bạn của Ngọa Long đấy thôi. Tôi là Thạch quảng Nguyên ở Dĩnh Châu, ông này là Mạnh công Thành ở Nhữ Nam.

Huyền Đức nói: tôi được biết đại danh của hai tiên sinh đã lâu, nay được bái yết, thực là may quá. Nhân tôi có mang theo cả ngựa, xin mời hai tiên sinh đến nhà Ngọa Long với tôi.

Quảng Nguyên nói: chúng tôi là bọn quê mùa, chẳng biết đâu những việc trị nước yên dân, xin đừng bận lòng hỏi chúng tôi những việc nơi ấy. Mời ông cứ lên ngựa đi tìm Ngọa Long.

Huyền Đức từ giã hai người rồi lên ngựa đi thẳng đến Ngọa Long cương. Tới trước nhà, gõ cửa hỏi tiểu đồng:

– Hôm nay tiên sinh có nhà không?

Tiểu đồng đáp: Đang ngồi trên nhà xem sách.

Huyền Đức mừng lắm, theo ngay tiểu đồng đi vào. Đến giữa cửa, nhìn thấy đôi câu đối:

Đạm bạc dĩ minh chí

Ninh tĩnh dĩ chí viễn.

Huyền Đức đương xem câu đối, lại nghe có tiếng ngâm thơ, vội vàng đứng nép cạnh bên nhòm vào, thấy trên nhà tranh, có một thanh niên ôm gối ngồi cạnh hỏa lò hát rằng:

Phượng bay cao, phi ngô đồng không đỗ

Sĩ ẩn mình, phi minh chủ không thờ

Nông thôn vui thú cầy bừa

Thảnh thơi đàn sách, đợi cơ chuyển vần.

Huyền Đức đợi hát xong mới bước lên thềm vái chào nói:

– Bị lâu nay hâm mộ tiên sinh, chưa dịp nào bái kiến. Mới đây được Từ Nguyên Trực tiến cử, vội đến tiên trang, rủi phải về không, nay xông pha mưa gió đến đây, được chiêm ngưỡng và thưởng thức và ngắm nhìn và thưởng thức tôn nhan, thật như mong ước quá.

Người thanh niên vội vàng đáp lễ:

– Tướng quân liệu có phải là Lưu Dự châu đến tìm anh tôi không?

Huyền Đức ngẩn người hỏi rằng:

– Thế tiên sinh cũng không phải là Ngọa Long sao?

Người thanh niên đáp: Tôi là Gia Cát Quân, em Ngọa Long, chúng tôi ba anh em: anh cả Gia Cát Cẩn hiện giờ đang làm mạc tân bên Tôn Trọng Mưu ở Giang đông, Khổng Minh là anh thứ hai tôi.

Huyền Đức hỏi: Ngọa Long ngày hôm nay có nhà không?

Quân đáp: Hôm qua vừa có Thôi Châu Bình đến rủ đi dạo rồi.

Huyền Đức hỏi đi dạo đâu. Quân nói:

– Khi thì bơi chiếc thuyền nhỏ chu du trên sông, khi thì thăm hỏi động viên những nhà sư trên núi, khi thì tìm anh em bạn chốn hương thôn, khi thì vui gẩy đàn đánh cờ, trong hang núi. Anh tôi đi, ở không bình thường không biết đâu mà tìm.

Huyền Đức nói: tôi thực là duyên mỏng dính, phận hèn, hai phen đi đều không gặp đại hiền.

Quân nói: Mời ngài hãy thư thả ngồi chơi xơi nước.

Trương Phi nói: tiên sinh ấy đã đi vắng, xin kha kha đi ngựa về thôi.

Huyền Đức nói: cất công đến đây, chẳng lẽ không bầy tỏ một đôi lời.

Lại hỏi Gia Cát Quân: tôi nghe nói lệnh huynh Ngọa Long tiên sinh tinh thông thao lược, mài miệt binh thư có phải không?

Quân nói: tôi không được biết.

Trương Phi nói: hỏi người ta làm gì? Mưa gió to lớn, kha kha đi về cho sớm.

Huyền Đức mắng át Phi đi. Quân nói: Anh tôi đi vắng, không đủ can đảm lưu ngựa xe ở lại lâu, xin để khi khác đáp lễ.

Huyền Đức nói: tôi đâu dám mong tiên sinh hạ cố. Vài hôm nữa, Bị sẽ tới hầu. Hôm nay nhân đây xin tiên sinh cho mượn bút giấy tôi viết bức thư để lại, nhờ chuyển đến lệnh huynh, để tỏ ý ân cần của tôi. Quân đưa bút mực ra. Huyền Đức viết thư như sau:

Bị tôi lâu nay hâm mộ cao danh, đã hai lần yết kiến đều không gặp phải trở về, ân hận vô cùng.

Tôi trộm nghĩ mình là loại dõi nhà Hán, lạm hưởng danh tước, mà nay trông thấy triều đình suy sụp, kỷ cương rối ren, gian hùng loạn nước, ác đảng dối vua thật là đau lòng xót ruột. Tuy có lòng cứu nước giúp dân, nhưng kém kinh luân, cho nên vì thế mong ngóng tiên sinh mở lòng nhân từ trung nghĩa đứng ra trổ hết tài lớn của Lã Vọng, thi thố kế lạ của Tử Phòng, thì thiên hạ may lắm, xã tắc may lắm.

Nay trước có mấy lời bày tỏ với tiên sinh. Bị xin về tắm gội ăn chay, đến bái tôn nhan một lần nữa, để giải lòng quê kệch xin tiên sinh soi xét cho.

Huyền Đức viết xong thư, đưa gửi Gia Cát Quân, rồi từ biệt ra về. Quân tiễn ra tận cửa. Huyền Đức còn ân cần dặn lại đôi ba lần.

Huyền Đức vừa lên ngựa sắp đi, thì thấy tiểu đồng đứng bên phía ngoài hàng rào vẫy tay nói.

Lão tiên sinh đã tới.

Lưu Bị nhìn ra thấy bên phía tây, chiếc cầu nhỏ, có một người đội mũ ấm trùm đầu, mặc áo hồ cừu cưỡi con lừa, theo sau một tiểu đồng mặc áo xanh đi hầu, tay xách một bầu rượu, đương rẽ tuyết đi lại, qua cái cầu nhỏ đang ngâm một bài thơ:

Một đêm gió lạnh lùng

Muôn dặm mây đỏ ối

Bời bời hoa tuyết bay

Nước non hình sắc đổi

Ngoảnh mặt trông lên trời

Tưởng là rồng ngọc chọi

Vây mai tua tủa bay

Một lát khắp bốn cõi

Cưỡi lừa qua cầu con

Than vì mai gầy cỗi.

Huyền Đức nghe ngâm xong nói rằng:

– Đây hẳn là Ngọa Long rồi.

Rồi nhẩy xuống ngựa bước tới chào nói:

– Tiên sinh xông pha rét mướt, mệt nhọc lắm nhỉ. Bị này đợi mãi tiên sinh.

Người ấy vội tụt xuống lừa, đáp lễ. Gia Cát Quân ở đằng sau nói: Đây là Hoàng Thừa Ngạn, ông nhạc anh tôi đó, không phải Ngọa Long đâu.

Huyền Đức (Thừa Ngạn?) nói: Nhân lão phu xem bài Lương Phủ ngâm ở trong nhà con rể có nhớ được một đoạn. Nay qua cầu nhỏ, chợt thấy hoa mai bên rào, nên sực nhớ lại đọc chơi, không ngờ quý khách nghe thấy.

Huyền Đức nói: Ngài đã gặp lệnh tế chưa?

Thừa Ngạn nói: Lão cũng đương đến tìm Ngọa Long đây.

Huyền Đức nghe xong từ biệt Hoàng Thừa Ngạn, rồi cưỡi ngựa về đang lượng mưa tuyết kinh hoàng. Huyền Đức vừa đi vừa ngoảnh lại ngắm gò Ngọa Long, buồn rầu không biết ngần nào.

Từ khi Huyền Đức về Tân Dã, ngày tháng thấm thoát đã sang xuân mới liền kén chọn ngày tốt, ăn chay ở sạch trong ba ngày tắm gội hun hương, thay quần đổi áo, rồi sang gò Ngọa Long yết kiến Khổng Minh. Quan Trương được tin cũng phát chán, kéo nhau vào can.

Quan Công nói: huynh trưởng đã hai lần thân đến nhà bái yết, lễ nghi như vậy là quá hậu rồi; có lẽ rằng Gia Cát Lượng cũng chỉ có hư danh, không còn thực tài nên mới tránh mặt không cho gặp đấy thôi. Sao huynh trưởng quá sùng bái người ấy làm vậy.

Huyền Đức nói: Không phải thế đâu. Ngày xưa Tề Hoàn Công muốn đi cầu một người quê mùa ở Đông Quách, năm lần đến mới gặp được, huống chi ta muốn cầu một đại hiền.

Trương Phi nói: kha kha nhầm đó, gã nhà quê đó sao gọi là đại hiền được. Chuyến này sẽ không còn cần kha kha đi nữa. Nếu hắn không đến, em sẽ lấy thừng trói điệu về đấy là ổn chuyện.

Huyền Đức mắng: chú không nhớ việc vua Văn Vương rất mất thời hạn rồi đi cầu Khương Tử Nha, Văn Vương còn kính người hiền ra làm sao à? Chú sao vô lễ quá vậy. Lần này chú đừng đi nữa, để ta đi cùng với Vân Trường thôi.

Phi nói: hai anh cùng đi cả, tiểu đệ ở trong nhà làm gì?

Huyền Đức nói: nếu muốn đi thì không được thất lễ.

Phi vâng theo. Nói rồi ba người cưỡi ngựa cùng bọn tùy tùng đến Long Trung. Còn cách lều tranh độ nửa dặm, Huyền Đức xuống ngựa đi dạo gặp Gia Cát Quân, Huyền Đức vội thi lễ hỏi: Lệnh huynh ngày hôm nay có nhà không?

Quân nói: anh tôi mới về chiều qua, tướng quân đên ngày hôm nay thì gặp. Nói rồi ung dung đi ra.

Huyền Đức nói: phen này may được gặp tiên sinh đây.

Trương Phi nói: người này mới vô lễ chứ. Dẫn luôn bọn ta vào trong nhà thì mất gì, sao cứ cắm đầu đi thẳng.

Huyền Đức nói: ai có việc người nấy, bắt buộc người ta sao được. Ba người lại đi, đến trước nhà gõ cửa, tiểu đồng ra Open nói:

Tiên sinh ngày hôm nay có nhà nhưng đang ngủ.

Huyền Đức nói: đã vậy xin đừng thông báo vội.

Rồi dặn Quan Trương hãy đứng chờ ngoài ngõ. Huyền Đức rón rén đi vào. Thấy Khổng Minh đương nằm nghỉ trên ghế, Huyền Đức chắp tay đứng chực dưới thềm. Được một lúc lâu, Khổng Minh vẫn chưa dậy. Quan Trương đứng đợi ngoài ngõ mãi, chẳng thấy động tĩnh gì mới lén vào xem, thấy Huyền Đức vẫn chắp tay đứng hầu.

Trương Phi giận lắm bảo Vân Trường rằng:

Lão tiên sinh này sao kiêu ngạo lắm thế. Thấy anh ta đứng thế kia, nó càng vờ vịt ngủ khì không dậy. Để em ra sau nhà cho một mồi lửa xem nó có phải dậy không?

Vân Trường can mãi Trương Phi mới thôi. Huyền Đức bắt hai người ra đứng đợi, rồi trông vào trong nhà thấy Khổng Minh trở mình, nhưng rồi lại quay mặt vào vách tường ngủ yên.

Tiểu đồng toan lại thức tỉnh, Huyền Đức bảo không nên thức tỉnh vội. Rồi lại đứng đợi một lúc nữa, Khổng Minh mới tỉnh ngâm bài thơ rằng:

Mơ màng ai tỉnh trước

Bình sinh ta biết ta

Thềm tranh giấc xuân đẫy

Ngoài tuy nhiên bóng ác tà.

Ngâm xong Khổng Minh mới quay ra hỏi tiểu đồng rằng: Có tục khách nào đến đấy không?

Tiểu đồng thưa: có Lưu hoàng Thúc đứng đợi đây đã lâu lắm.

Khổng Minh liền vùng dậy nói: sao không phục vụ thông tin ngay, để ta dậy thay áo đã. Rồi đi vào trong nhà trong, một lúc mới mặc áo đội khăn chỉnh tề ra tiếp. Huyền Đức lạy thụp xuống đất nói rằng: tôi là người ngu hèn, dòng dõi nhà Hán, lâu nay nghe tiếng lớn tiên sinh, như sấm bên tai, đã hai lần đến hầu, đều không được gặp. Tôi có viết bức thư nhờ đệ tới, không biết đã được tiên sinh xem đến chưa?

Khổng Minh nói: tôi là một người quê mùa ở Nam Dương, tính quen lười biếng. Mấy lần đội ơn tướng quân có lòng hạ cố, tự thấy hổ thẹn vô cùng.

Tuổi tiên sinh mới hai mươi bẩy.

Xếp cầm thư thoát khỏi điền viên.

Gia Cát Lượng nhẩy lên vũ đài chính trị lúc còn là một một thanh niên gần đầy ba mươi tuổi, trong lúc Lưu Bị đã 49 tuổi. Quá nửa đời lăn lộn xông pha, nay Lưu Bị chịu nghe theo một thư sinh mặt trắng thì quả cái đức khiểm hư của Lưu Bị đáng cho đời sau noi gương vậy.

Mặc dầu những sách lược và cửu châu xuân thu chép rằng: Lưu Bị đồn quân tại Phàn Thành, Gia Cát Lượng lên đó yết kiến. Lưu Bị thấy Lượng vốn người lạ lẫm biết bao giờ, lại trông dạng tướng còn non nớt, nên chỉ có thể lấy lễ đối đãi với học trò mà đáp.

Chép như vậy ít phần đúng, chính bới nếu ta đọc lại lời biểu của Khổng Minh với những câu: Tiên đế không ngại thần quê mùa, đã ba lần đến thăm thần ở mái nhà tranh; hoàn toàn có thể chứng tỏ một cách chắc như đinh Khổng Minh không tới tìm Lưu Bị trước.

Tìm đến người hay đợi người tìm tới mình liệu có phải là một yếu tố mà thành phần trí thức nêu lên do thói xấu câu nệ chăng?

Đành rằng: Danh sĩ đương thời có cái tệ câu nệ. Nhưng riêng với con người tiến bộ như Khổng Minh thì tuyệt đối không, chẳng qua đấy là một tác dụng chính trị. Nhà Nho tiến bộ, yếu tố ẩn dật và xuất chính được ý niệm rất là linh động. Hơn nữa thành phần trí thức thời Tam quốc đã có cùng chung một lý tưởng là xuất chính nắm quyền lãnh đạo vận mệnh chính trị, đánh đổ khối mạng lưới hệ thống tồi tàn lỗi thời cũ. Tất cả nguyện vọng đứng lên lãnh đạo cuộc đấu tranh đã được bầy tỏ một cách tuyệt khéo trong những lời ca Lương Phủ, Ngoạ Long ngâm v.v… văn chương tuy đầy vẻ ẩn dật, nhưng tư tưởng thì sôi réo lên ý định giúp đời cứu dân. Tưởng cũng nhắc fan hâm mộ, trước lúc Lưu Bị gặp Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã biết Tư Mã Đức Tháo, Thôi Châu Bình, Thạch Thao, Từ Thứ…. Vậy Khổng Minh không phải chỉ trơ trọi một mình mà đằng sau ông có cả một tập đoàn lớn lớn thanh niên trí thức khá phần đông, lập thành một lưới tình báo đưa dần Lưu Bị từ chỗ nhu yếu người bầy mưu tiếp theo chỗ sợ sệt, thán phục, kính nể vị lãnh tụ của tớ là Khổng Minh. Cái lối nâng cao thân giá của Khổng Minh là phương pháp lấy lùi làm tiến, lấy ẩn để tới, trước hết làm người ta biết mình, rồi làm cho những người dân ta thành khẩn cầu mình sau mới mang hết tài năng ra đền đáp.

Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, trú quán huyện Lang Gia (nay thuộc tỉnh Sơn đông), sinh vào năm Quang Hòa thứ tư đời vua Linh Đế (181 Tây lịch), vốn dòng dõi nhà quan tư lệ hiệu úy Gia Cát Phong, cha tên là Khuê mất sớm. Lượng mới theo chú là Huyền. Huyền trước làm thái thú Dự Chương do Viên Thuật đề bạt. Sau Huyền bỏ Viên Thuật sang nương nhờ Lưu Biểu. Loạn khởi đầu, khu vực Lưu Biểu nhờ việc tăng trưởng nông nghiệp nên dân cư vẫn yên ổn. Huyền ở với Biểu chăm sóc nghề nông tang tại đất Tương Dương. Anh em Gia Cát Lượng là người thừa kế sản nghiệp đó.

Hai chữ “cung canh” trong tờ biểu, fan hâm mộ Tam quốc thương tưởng tượng quyền lực tối cao Gia Cát Lượng nghèo nàn. Sự thực nhờ quan hệ chính trị của Gia Cát Huyền với Lưu Biểu, anh em Gia Cát Lượng cũng khá được đánh giá gần như thể thuộc vào cấp bậc công tử. Về gia tài gần đến mức phú nông.

Từ thuở 18, 19 tuổi Khổng Minh đã cùng những bạn như Từ Thứ, Mạnh Công Uy, Thạch Quảng Nguyên dứt bỏ lối học hoa hòe hoa sói thịnh hành lúc bấy giờ mà đi vào con phố “học dĩ chí dụng” “Dĩ nho vi thể, dĩ pháp vi dụng”. “Nho pháp đồng qui” “Vương bá tạp dụng”.

Khoảng từ 22 đến 23 Khổng Minh lấy vợ, tuy là thân phận công tử nhưng vợ ông rất xấu, đến nỗi ngay ca dao của Việt cũng luôn có thể có câu (xấu như vợ ông Gia Cát). Chuyện lấy vợ của Khổng Minh thật cực kỳ đơn thuần và giản dị, sách Tương Dương ký chép:

Hoàng Thừa Ngạn nói với Khổng Minh: nghe nói anh muốn lấy vợ, lão có người con gái xấu xí, tóc vàng da đen nhưng rất hiền thục, anh chịu chăng? Khổng Minh gật đầu. Hoàng Thừa Ngạn cho cưới ngay. Ai cũng buồn cười chế diễu. Miền Tương Dương lúc bấy giờ vẫn còn đấy lưu truyền câu tục ngữ:

Mạc tác Khổng Minh trạch Phụ

Chỉ đắc ả Thừa sú nữ.

(Đừng bắt chước Khổng Minh chọn vợ. Chỉ lấy được mụ xấu như ma)

10.1. Thất bại Kinh châu lần thứ nhất.

Sinh hoạt chính trị của Gia Cát Lượng bắt nguồn từ thời điểm năm ông 27 tuổi thuộc Hán Linh Đế Lưu Hiệp đệ thập nhất niên. Ông ra phò giúp Lưu Bị giữa lúc Lưu Bị đang thất cơ lỡ vận, nương nhờ Lưu Biểu ở Tân Dã nhưng lại bị chân tay Lưu Biểu đuổi đánh.

Vì cớ gì, Lưu Bị trong tình trạng khốn cùng như vậy lại được tập đoàn lớn lớn thanh niên trí thức vùng Tương Dương ủng hộ?

Trả lời vướng mắc trên, ta phải nhìn vào tình hình chính trị Kinh Châu.

Kinh Châu vốn vẫn là khu vực thái bình. Mãi sau thế lực của Tào Tháo tăng trưởng, vùng này mới bị rình rập đe dọa, ngôi Lưu Biểu như ngọn đèn trước gió. Nội bộ phát sinh xung đột, phản phúc, bè phái. Nội tôn, ngoại thích xâu xé lẫn nhau. Phe ngoại thích mạnh vây cánh hơn, nhưng vì chủ trương hàng Tào Tháo nên bị dân chúng vẫn còn đấy mang nặng đầu óc địa phương phong kiến chống lại, và thành phần trí thức rất ghét tập đoàn lớn lớn ngoại thích Sái Thị (vợ Lưu Biểu) và Sái Mạo (em Sái Thị) đứng đầu, thường làm lắm điều ngang ngược. Lưu Bị đến nương nhờ Lưu Biểu, nhưng đứng về phe nội tôn, vận động cho Lưu Kỳ trong việc kế vị Lưu Biểu nên Lưu Bị bị bọn Sái Mạo lập mưu giết, Lưu Bị trốn được (xin xem lại hồi 34)

Tuy thất bại liên tục nhưng Lưu Bị vẫn đáng kể như một trong những lãnh tụ quan trọng lúc bấy giờ vì tính chất kiên trì quật cường và tiếng tăm biết nghĩa, yêu dân của ông. Thêm nữa dân chúng Kinh Châu đang bất mãn với cơ quan ban ngành thường trực Lưu Biểu, nên đống ý hùa theo Lưu Bị. Nhờ thế mà sau khi nhảy qua Đàn Khê thoát chết, Lưu Bị được quần chúng che chở, trí thức giúp sức.

Bởi chưng phò tá một kẻ đã khánh tận, nên kế sách của Gia Cát Lượng mới lập trên việc đi tìm vị trí căn cứ địa trước hết. Kế sách ấy ra làm sao, Tam quốc chí diễn nghĩa viết:

Khổng Minh nói:

– Từ khi Đổng Trác phản nghịch đến nay, hào kiệt bốn phương trỗi dậy. Như Tào Tháo kém thế Viên Thiệu mà đánh được Viên Thiệu, đó không những chỉ có thiên thời mà cũng luôn có thể có cả mưu người nữa. Nay Tháo đã cầm được quân trăm vạn, mượn tiếng thiên tử để khống chế chư hầu, xem đó thật không thể tranh giành với hắn được. Tôn Quyền giữ đất Giang Đông đã được ba đời, đất đai hiểm trở mà lòng dân lại quy phục, xem thế Giang Đông cũng chỉ dùng để giúp ta chứ không thôn tính được, duy chỉ có Kinh Châu, phía bắc có sông Hán, sông Miện kéo dãn đến tận Nam hải, phía Đông tiếp nối đuôi nhau với Ngô Hội, phía Tây thông vào Ba Thục, chỗ ấy là đất dụng võ, phải có chúa giỏi mới giữ nổi, trời để dành riêng cho tướng quân đó. Tướng quân nghĩ sao? Lại có Ích Châu, hình thế hiểm trở, ruộng đất phì nhiêu ngàn dặm, thực là một vựa thóc của trời. Cao Tổ rất mất thời hạn rồi cũng do nơi này mà dựng thành nghiệp đế. Nay Lưu Chương ngu si hèn yếu, dân nhiều nước giầu mà không biết trông coi, những người dân hiền tài dân trí chỉ mong sao mỏi được vua sáng mà thờ. Tướng quân đã là loại dõi nhà vua, tín nghĩa tỏa ra bốn bề, thu nạp anh hùng, mong người hiền như khát nước, nếu tướng quân gồm được châu Kinh, châu Ích, giữ vững nơi hiểm trở, mặt tây hòa với những tộc, mặt nam phủ dụ những nước Di Việt, ngoài thì link với Tôn Quyền, trong thì sửa sang việc chính trị, đợi lúc thiên hạ có biến, sai một thượng tướng đem quân Kinh Châu tiến sang Uyển Lạc, còn tướng quân thì đem quân tiến ra Tây Xuyên, nhất định trăm họ phải đem giỏ cơm bầu nước đến đón tướng quân. Nếu được như vậy, nghiệp lớn mới thành, nhà Hán mới phục hưng được. Đó là việc Lượng này định bầy với tướng quân, tướng quân thử xét xem.

Nói xong sai tiểu đồng đem bản địa đồ treo giữa nhà rồi trỏ bảo Huyền Đức rằng: đấy là địa đồ 54 châu ở Tây Xuyên. Tướng quân muốn thành nghiệp bá thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía nam, còn tướng quân nắm vững lấy Tây Xuyên để dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc rồi sau mới tính đến Trung Nguyên được.

Toàn bộ kế sách Khổng Minh bầy cho Lưu Bị ngay buổi đầu gặp gỡ hoàn toàn có thể thu gọn vào mấy điều sau này:

a- Cấp tốc kiến lập vị trí căn cứ địa.

b- Đoàn kết những lực lượng để đương đầu với Tào Tháo.

c- Củng cố vị trí căn cứ địa thật vững chãi

d- Đợi thời cơ tiến công cơ quan ban ngành thường trực Tào Tháo.

Kế sách Khổng Minh thực là vững vàng chu đáo. Nhưng rút cuộc Khổng Minh thất bại. Nguyên nhân thất bại thứ nhất là không lấy nổi địa phận Kinh Châu sớm hơn. Nguyên nhân thứ hai anh em Lưu Quan Trương bị xấp xỉ, phá hoại chủ trương Liên Ngô, thí thân vô ích.

Tại sao không lấy nổi địa phận Kinh Châu sớm hơn?

Tam Quốc Chí diễn nghĩa nói: sở dĩ không lấy nổi Kinh Châu sớm là vì Lưu Huyền Đức không chịu làm điều phi nghĩa. Một lần Khổng Minh xui Lưu Bị đánh úp Kinh Châu giữa lúc Lưu Biểu ốm nặng. Huyền Đức nói: Thà ta chết thì thôi, chớ không chịu làm điều phi nghĩa. Lần khác Y Tịch xui Lưu Bị mượn danh nghĩa viếng tang đến Tương Dương dụ Lưu Tông ra đón, lập tức bắt lấy giết sạch những bọn tòng đảng. Huyền Đức ứa nước mắt nói rằng: Lúc anh ta sắp mất đã gửi con cho ta, nay nếu bắt lấy con, cướp lấy đất thì sau này xuống chín suối còn mặt mũi nào trông thấy anh ta nữa.

Sự thật nếu đọc kỹ mấy hồi 39, 40, 41 sẽ thấy rõ: Tào Tháo thấy Lưu Biểu sắp mất, sợ Lưu Bị sẽ toạ hưởng kỳ thành đất Kinh Châu nếu Lưu Kỳ kế vị, liền đem quân tiến công Tân Dã đánh nhau với Lưu Bị, trận chiến tranh Tào – Lưu đang gay go thì Lưu Biểu mất. Nhờ cuộc tiến công của Tào Tháo vào lực lượng Lưu Bị mà tập đoàn lớn lớn ngoại thích Sái Mạo hất cẳng Lưu Kỳ, tôn Lưu Tông lên kế vị Lưu Biểu và bí mật đầu hàng Tào Tháo. Mặc dù Khổng Minh thắng lợi Tào Tháo hai trận Tân Dã và Bác Vọng, nhưng trên đại thế vẫn là hết lực chống đỡ và buộc phải rút lui. Tháo biết tình trạng trở ngại vất vả của Lưu Bị, nên mới sai Từ Thứ đi sứ đến dụ hàng. Từ Thứ tới Phàn Thành. Huyền Đức, Khổng Minh ra đón. Từ Thứ nói Tào Tháo sai tôi đến đây dụ sứ quân, chẳng qua giả danh mua chuộc lòng người đó thôi. Nay Tháo chia quân làm tám đạo, lấp sông Bạch Hà mà tiến, tôi e Phàn Thành không giữ được, nên liệu mà đi nơi khác. Lưu Bị bèn bỏ Phàn Thành rút về Tương Dương. Tháo đánh đến Tương Dương, Lưu Bị bỏ chạy sang Giang Hạ, ở Giang Hạ cũng không xong, may nhờ thoả ước giữa Khổng Minh và Lỗ Túc, Lưu Bị mới đến Đông Ngô tá túc.

10.2. Ngoại giao trên hết

Gỡ thế bí cho Lưu Bị là tài ngoại giao của Khổng Minh. Khổng Minh thường nói: “Đạo có ba điểm lưu ý: sự, thế và tình. Sự cơ đến mà không biết ứng không phải là trí. Thế cơ động mà không biết mưu đồ, không phải là giỏi. Tình cơ đến mà không biết hành vi, không phải là dũng.” Tình cảnh yếu tố và thế lực của Lưu Bị sau khi chạy dài ở cầu Trường Bản, nếu không còn cái trí, cái giỏi và cái dũng của Khổng Minh chắc chắn là nghiệp lớn Lưu Bị đã tan tành.

Chẳng những vậy trí ấy, giỏi ấy, dũng ấy còn tạo ra một tình thế đặc biệt quan trọng, kể đại cục là chia ba chân vạc, kể thành viên Lưu Huyền Đức là tay trắng khởi nghiệp chiếm Kinh Châu, Ba Thục, nhỏ hoá lớn, không thành có.

Gia Cát Lượng vận động xoay chuyển thành thế tam phân không nhờ binh hùng, lực mạnh. Tất cả vốn liếng của ông chỉ là nước bọt biện thuyết. Sức lực biện thuyết của ông to lớn mãnh liệt như lời cổ nhân nói: “Khả dĩ lãnh quyền uy nhi lập quyền uy, thăng giáp binh nhi tự vi giáp binh.”

Đọc hồi thiệt chiến quần nho, trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa thật kỳ thú vô cùng. Tuy nhiên vì phải vận dụng thú vị tiểu thuyết nên Tam Quốc Chí diễn nghĩa không khỏi làm cho fan hâm mộ hiểu nhầm biện là bẻm mép. Nếu chỉ bẻm mép, Khổng Minh khó lòng thâu kết quả lớn như vậy. Con người biện thuyết của Khổng Minh còn ghê gớm đáng nể hơn nhiều. Mặc Tử nói: Biện thuyết là trình diễn nổi sự phải trái để thắng.

Văn Trung Tử diễn rằng: Kẻ tục cho diễn thuyết chỉ là bẻm mép, thấy ai ăn nói trơn tru linh động dáng dấp tựa cuồng phong vũ bão, thì vì tò mò mà thán phục.

Biện thuyết không phải là khuất phục chiếc miệng người khác mà hầu hết là khuất phục nhân tâm. Muốn khuất phục nhân tâm người biện thuyết phải khá đầy đủ bốn đức tính: Cơ, dũng, trí, biến.

Cơ: Xét thời, xét thế nhân lợi thừa tiện.

Dũng: Quyết đoán quả cảm, làm và tin những điều thiên hạ còn do dự sợ sệt.

Trí: Biết rõ sự lý, thông đạt nhân tình, xử lý và xử lý giỏi giang.

Biến: Thay đổi không còn ai liệu được.

10.3. Bàn về tư tưởng chính trị, tài cán quân sự chiến lược của Gia Cát Lượng

Chính sách mà Gia Cát trình diễn với Lưu Bị tại Long Trung khái quát mấy điểm hầu hết đi theo thứ tự dưới đây:

1) Hoà hiếu với Đông Ngô.

2) Chiếm đất Thục làm vị trí căn cứ khởi nghiệp.

3) Ổn định nội bộ.

4) Chống giữ với những lực lượng bên phía ngoài.

5) Bình định man tộc.

6) Hưng binh đánh Ngụy.

Hơn 20 năm liền, Khổng Minh nỗ lực tận tuỵ thực thi 6 sách lược. Chúng ta hãy kiểm điểm quy trình hơn hai mươi năm ấy. Khổng Minh đã làm được những gì? (Về yếu tố Kinh Châu đã nói ở trên rồi).

Năm Kiến An thứ 9, Lưu Chương đầu hàng Huyền Đức. Huyền Đức chiếm Thục. Đất Thục tuy bờ xôi ruộng mật, nhưng xã hội loạn vì lẽ giáp ranh những ngoại tộc, “loạn” Trung Nguyên bấy giờ mới lan tới đây, sự xung đột giữa tư tưởng mới cũ, con người mới cũ, tiến bộ và phản động còn rất mạnh. Chiếm Thục rồi, yếu tố nhân tâm hãy còn trăm đầu ngàn mối rối ren. Cho nên việc làm mà Khổng Minh xem là quan trọng số 1 là: an bài nhân sự. Sách Chiêu Liệt truyện chép: “Những kẻ sĩ có chí, không người nào là không được khuyên giải, vỗ về, nhiêm dụng.” Các bọn có thế lực ở đất Thục như: Đổng Hoà, Hoàng Quyền, Lý Nghiêm, Bành Nghĩa, v.v… đều chịu phục cả. Nhờ tài an định nhân tâm, nên việc chiếm cứ Ba Thục không gặp những vụ phản kháng lớn. Nhờ chủ trương Liên Ngô nên Tôn Quyền làm ngơ mặc cho Lưu Bị độc quyền hoành hành ở Tây Xuyên.

Kiến lập vị trí căn cứ địa xong, Khổng Minh lại xác lập thêm một lần nữa chủ trương Liên Ngô để rảnh tay tiến hành thiết kế Ba Thục. Công cuộc Kiến Thiết đất Thục là một việc làm rất là vĩ đại, vì dưới chính sách Lưu Chương khu vực này đã quá ung thối. Sử nói về công tích như sau:

Ruộng nương khai thác. Kho lẫm thừa đầy. Đồ dùng tốt rẻ. Gia súc sinh sản nhiều. Đường phố không còn người say rượu. Viên chức không khí tham. Mỗi người đều nỗ lực. Của rơi không còn ai nhặt. Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu. Phong hoá nghiêm chỉnh, vui sướng. Nhà cửa cầu và cống sửa sang.

Trần Thọ phê rằng:

Ông Gia Cát Lượng làm Tướng quốc phủ dụ trăm dân, nêu cao tín nghĩa kiểm soát và điều chỉnh quan chức đâu ra đấy, vận dụng công đạo, thể hiện tâm thành. Kẻ tận trung, khó nhọc tuy thù vẫn trọng thưởng, kẻ phạm pháp biếng lười tuy thân cũng trừng trị. Phép cai trị của ông chú dụng đến bản chất của vật lý, trọng thực hơn danh.

Kiến thiết hoàn thành xong, Khổng Minh chuyển sang quy trình bình định những man tộc. Muốn đánh Nguỵ mà không lo sợ ngại hậu hoạn tất yếu phải xử lý và xử lý yếu tố những man tộc. Bảy lần bắt bảy lần tha Mạch Hoạch, vừa bằng giải pháp quân sự chiến lược, vừa chính trị, Gia Cát xử lý và xử lý tốt đẹp nỗi trở ngại vất vả biên giới. Sau đó Khổng Minh mới khởi binh đánh Nguỵ.

Tư tưởng chính trị của Gia Cát Lượng rất khoát đạt, mềm dẻo, không câu thúc hẳn trong khuôn khổ pháp gia cũng không câu nệ trong khuôn sáo nho gia. Căn cứ vào những yếu tố đã được thực thi ở Tây Xuyên thì triết học chính trị của Gia Cát Lượng hoàn toàn có thể nói rằng là tập hợp những sở trường của toàn bộ nho lẫn pháp, là đại thành của toàn bộ hai đạo vương, đạo bá. Nho gia chú trọng nhân trị, pháp gia chỉ trọng pháp trị. Gia Cát chú trọng pháp với nhân ngang nhau. Vương đạo quí tín nghĩa, Bá đạo quí lợi hại. Gia Cát cai trị đất Thục vừa mở rộng Tín vừa kiểm soát và điều chỉnh lợi hại.

Đời sau Tô Đông Pha có ý chê Khổng Minh nói:

– Lấy thiên hạ bằng nhân nghĩa, giữ thiên hạ bằng nhân nghĩa là nhà Chu. Lấy thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt, giữ thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt là nhà Tần. Mượn phương pháp nhà Tần để chiếm thiên hạ, lấy phương pháp nhà Chu để giữ thiên hạ là nhà Hán.

Vừa dùng nhân nghĩa vừa dùng trá lực là lề lối của Gia Cát Lượng. Vì thế mà Gia Cát thất bại.

Nói vậy ý Tô Đông Pha nhận định rằng: vì Khổng Minh không dứt khoát bề nào nên hỏng. Lời phê bình của Tô Đông Pha hơi vũ đoán riêng với Gia Cát Lượng và quá công thức riêng với chính trị. Tô Đông Pha là một nhà văn ngoạn mục nên ông không làm rõ hiện thực chính trị. Vương An Thạch đã cho họ Tô một bài học kinh nghiệm tay nghề khá thâm thúy, khi họ Tô chữa câu thơ: Hoàng khuyển ngoạ hoa tâm (con chó vàng nằm dưới bóng cây hoa). Vương An Thạch bị Đông Pha chê dốt, cười không nói gì ra lệnh đày Tô Đông Pha đến địa phương mà ông đã cư trú trước kia. Đến nơi Tô Đông Pha mới biết rằng ở vùng này còn có thứ sâu mà dân chúng đặt tên là sâu “hoàng khuyển”.

Ở vào cái thế Khổng Minh tại Tây Xuyên thì mới thấy hành vi của Khổng Minh không lầm. Trong khi quần chúng tranh thắng, sự nguy cấp tồn vong cho từng lực lượng chỉ mong sao manh như sợi tóc, nhân chính và vương đạo là việc lâu dài, đương nhiên không hoàn toàn có thể ứng phó ngay với cục diện xoay chuyển nhanh gọn. Trị loạn trước phải dùng nghiêm hình, vậy thì lề lối pháp gia rất thích hợp. Gia Cát Lượng dùng tính cấp của pháp gia để hộ vệ cho tính khoan của nho gia là đúng vậy.

Sách Thục Ký chép:

Dưới chính sách Lưu Chương, sĩ đại phu nhiều kẻ dùng thế dùng tiền để áp bức khinh thị tiểu dân, Lượng nắm cơ quan ban ngành thường trực quyết ra tay tiêu trừ tình trạng đó, những nhà triệu phú oán than rầm trời.

Đại thần tên là Pháp Chính cho thế là quá nghiêm ngặt nên can Khổng Minh rằng:

“Ngày xưa vua Hán Cao Tổ vào đây, đã ra điều ước gồm 3 chương, dân Tần nhớ đức vua Cao Tổ. Nay ngài nhờ vào uy lực chiếm cứ được một Châu, mới trị nước mới, chưa thi ân huệ phủ dụ, chủ với khách chưa thật đống ý. Tôi nghĩ ngài nên nới tay để yên lòng vướng mắc, thoả mãn nguyện vọng trăm họ.”

Gia Cát Lượng nghe Pháp Chính nói, cười đáp rằng:

Ông mới chỉ biết một mà chưa chắc như đinh hai. Nhà Tần vô đạo, chủ trương khắc nghiệt. Dân tâm oán vọng. Cao Tổ dựa đấy mà khoan hậu cởi mở, tháo gỡ bàn tay tàn bạo của nhà Tần. Còn như Tây Xuyên, Lưu Chương bạc nhược hôn ám, Tính từ lúc ngay những đời trước Văn với Pháp đã bỏ chểnh mảng, uy lệnh trễ nải, chính vì sự hỗn loạn. Đạo quân thần mất hết trật tự. Cho ngồi cao, vị cao tất lạm quyền. Thi điều ân nghĩa vặt, ân nghĩa hết thì sinh hỗn láo. Bệnh Ba Thục là vì gốc loạn mà ra. Tôi không thể không nghiêm pháp để lập lại trận tự.

Sách Hoa Chương Chí ghi: Có người trách Gia Cát Lượng chỉ ham công mà tiếc thưởng. Gia Cát đáp: Trị thiên hạ theo ý tôi, cần lấy “đại đức” làm cơ bản chứ không lấy “tiểu huệ” làm cơ bản. Xem như Lưu Cảnh Thăng là con người trọng tiểu huệ, nay cho kẻ này cái này mai cho những người dân kia cái khác. Rút lại tiểu huệ chỉ gây thêm mầm loạn. Đại đức là gì, toàn bộ chúng ta hãy kiểm điểm lại công tích Gia Cát đã nêu ra ở trên: Ruộng nương khai thác… viên chức không khí tham… Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu… v.v.

Cơ sở tư tưởng pháp trị của Khổng Minh đặt trên nền tảng đại đức cho nên vì thế ông thường nói với thuộc hạ: Lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ (Ngã tâm như bình, bất năng vị nhân tác khinh trọng). Câu nói đó biểu lộ minh bạch tính chất chí công vô tư của Khổng Minh mỗi lần ông thi hành quyền bính.

Trương Duệ nhận xét Khổng Minh rất đúng thời cơ ông nói rằng:

– Gia Cát thưởng không quên những người dân ở xa. Phạt không biến thành kẻ ở gần làm mờ ám. Ở với ông thì chức tước đổi bằng công lao. Hình tội không thể đem thế lực tiền tài mà được miễn.

Sử dụng lề lối pháp gia, để ứng với những yếu tố cấp thời, ngay sau khi chiếm cứ Tây Xuyên để tại vị lại trật tự yên đâu nhé rồi, Gia Cát Lượng cho vận dụng lề lối nhân trị của nho gia, để tiếp tục thiết kế Ba Thục.

Trước hết ông nêu lên phương châm:

Không vì người mà giao việc, phải vì việc mà chọn người.

Vũ Hầu dùng người lấy tài năng làm tiêu chuẩn. Phương pháp nhận định để biết người, Vũ Hầu ghi toàn bộ trong thiên Tri nhân thuộc tập “Tưởng Uyển” như sau:

– Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành vi trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo. Kẻ hình thức bề ngoài cung kính mà trong tâm trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ thật tận lực mà bất trung. Tuy nhiên đạo biết người cũng hoàn toàn có thể phân thành bẩy cách:

a) Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết chí hướng.

b) Lấy lý luận dồn vào thế bí để biết biến thái.

c) Lấy mưu trí trị họ để trông thấy kiến thức và kỹ năng.

d) Nói với họ những nỗi trở ngại vất vả để xem đức dũng.

e) Cho họ uống rượu say để dò tâm tính.

f) Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng liêm chính.

g) Hẹn việc làm với họ để biết chữ Tín.

Do nhu yếu của thời thế, nên toàn bộ chủ trương nhân trị của Khổng Minh đều quy vào việc tiến cử người hiền. Ông viết: “Trị nước chẳng khác gì trị bản thân. Trị thân cần nuôi dưỡng thần khí, đạo trị quốc là tiến cử người hiền năng. Nước có người hiền như nhà có cột chèo vững chãi. Quốc gia nào mà dân chúng nghèo đói, quan lại giầu sang, bọn nịnh hót ở ngôi cao, người trung lương bị đầy ải, thì vương quốc đó không thể bình an được.”

Vũ Hầu chú trọng đến yếu tố nhân tài đến thế, kết cuộc ông thất bại ngay trên yếu tố này. Tại sao? Chúng ta sẽ bàn đến trong một chương khác.

***

Người đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa ai cũng thấy cực hứng thú, mỗi lần xem việc quân sự chiến lược Gia Cát Lượng dùng binh.

Lần thứ nhất Khổng Minh ra mưu là trận đánh ở Bác Vọng. Trận này lực lượng Lưu Bị đúng như lời Hạ Hầu Đôn: Lưu Bị như lũ chuột, thế nào ta cũng bắt được. Chính Huyền Đức cũng công nhận khi Khổng Minh nói: Quân Minh Công cũng chẳng qua được vài ngàn, nếu Quân Tào kéo đến đánh lấy gì mà chống cự? Kết quả trận Bác Vọng rằng:

Bác Vọng dùng mưu đánh hoả công.

Cười cười nói nói vẫn thung dung.

Tào Man nghe tiếng hồn bay bổng.

Rời khỏi lều tranh đệ nhất công.

Trận thứ hai là trận Tân Dã với kết quả: Quân sĩ Tào chạy lửa dày xéo lẫn nhau, chết vô kể. Bọn Tào Nhân vừa thoát nạn lửa thì đằng sau đã thấy ngay Triệu Vân dẫn quân đuổi đánh giết, quân Tào tranh nhau chạy trốn, không còn ai dám ngoảnh cổ lại. Đang chạy bị My Phương kéo quân ra bồi cho một trận nữa. Tào Tháo thua to, cướp đường rún chạy. Chạy đến sông Bạch Hà lại bị Quan Vân Trường phục sẵn khơi nước. Quân Tào chết vô số.

Việc Gia Cát mượn 10 vạn mũi tên của Tào Tháo.

Vụ phục binh ở Hoa Dung Lộ tiêu diệt nốt tàn lực Tào.

Vụ cướp Nam Quận dùng binh phù của Tào Nhân rồi sai Trương Phi đánh úp Kinh Châu.

Vụ bẩy lần bắt Mạnh Hoạch.

Vụ gẩy đàn đuổi Trọng Đạt.

Vụ lừa Vương Song và đánh úp Trần Sương.

Vụ đấu trận làm nhục Tư Mã Ý.

Vụ chém đầu Trương Cáp.

Vụ vây khốn cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương Cốc.

Tất cả mọi trận, mưu trí của Khổng Minh thật là tài tình, những mặt: từ việc xét thế lực đến cách thắng địch, trọng địch khinh địch, đến yếu tố dữ thế chủ động, đoạt yếu tước nhược lực lượng địch, dùng lực lượng địch làm cho địch hoang mang lo ngại, lầm lỗi, đến đường lối gây thêm vây cánh liên minh nhất nhất Khổng Minh không sơ hở bao giờ.

Tư Mã Ý cũng là một vị tướng giỏi đời Tam Quốc, nhưng không bao giờ ông dám sánh ngang với Khổng Minh. Mỗi lần bình phẩm Gia Cát Lượng, Tư Mã Ý chỉ nói: “Đấy là kỳ tài trong thiên hạ.”

***

Những trước tác về phương diện quân sự chiến lược của Khổng Minh đều gom góp trong tập “Tưởng Uyển ngũ thập thiên”. Tôi xin trích dẫn ít đoạn Gia Cát nói về nghề làm tướng để bạn đọc cứu xét:

Tướng tài:

Tướng tài phân định làm tám cỡ:

– Biết lấy đức mà dẫn dắt, dùng lễ để hoà nhân, xét đến nỗi dốt, nỗi rét hiểu điều cơ cực của quân lính, là nhân tướng. (Ông tướng có lòng nhân từ).

– Làm việc không cẩu thả, không lợi nhiễu tâm tính, chết vinh sống không nhục là nghĩa tướng.

– Ở ngôi quí không kiêu, thắng không tự thị, cứng rắn nhưng biết nhẫn nhục là lễ tướng.

– Biến hoá khôn lường, hành vi ứng phó giỏi, chuyển hoạ thành phúc, nhân nguy chế thắng là trí tướng.

– Tiến có thưởng, thoái trừng phạt, thưởng đúng thời cơ, phạt không chừa người thân trong gia đình quí là tín tướng.

– Linh động, đánh nhanh, rút mau, giỏi dùng đoản binh, quân sĩ kính sợ là bộ tướng.

– Đánh ào ạt, xông pha nơi hiểm yếu, lúc tiền phong lúc hậu vệ che đỡ ba quân là kỵ tướng (Kỵ binh).

– Khí chất làm phấn khởi ba quân, ham đánh trận lớn, tránh trận nhỏ là mãnh tướng.

– Thấy người hiền thì quí trọng, biết nghe, biết dùng lời hay lẽ phải, khoan hoà mà không kém phần cương dũng, giản dị nhưng nhiều mưu đó là đại tướng.

Tướng giỏi:

Làm Tướng có năm điều giỏi, bốn vấn đề cần:

Năm điều giỏi:

Giỏi biết dùng thế của địch.

Giỏi biết đạo tiến thoái.

Giỏi biết hư thực của một nước.

Giỏi biết thiên thời nhân sự.

Giỏi biết sông núi hiểm yếu.

Bốn vấn đề cần:

Khi bàn luận cần nhiều mưu lạ.

Khi dùng mưu cần bí mật.

Khi động binh cần yên lòng dân chúng.

Khi trận chiến tranh cần làm dân chúng nhất tâm.

Tư tưởng người làm tướng

Thu dụng hào kiệt để giữ nhân tâm. Khéo dùng quần chúng để sở hữu nhiều nhân lực. Hiểu đạo nhu cương. Trước nhân nghĩa sau mới trí dũng. Lúc tĩnh như cá lặn. Lúc động như voi lồng. Phân tán liên minh của địch. Đánh chỗ yếu để đập gẫy chỗ mạnh. Rút chắc như núi chuyển. Tiến nhanh như vũ bão. Lấy lợi dụ địch. Giả hèn cho địch kiêu. Thân với những người đa mưu. Xa kế trước động binh sau. Tính thắng đã rồi mới chiến.

10.4. Bàn về cái mượn của Khổng Minh

Hồi thứ 46, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể: Hôm sau Chu Du hội cả những tướng dưới trướng, mời Khổng Minh đến bàn việc. Khổng Minh đến, Du hỏi:

Nay sắp đánh nhau với Tào Tháo trên mặt sông, nên dùng vũ khí gì cho tiện?

Khổng Minh thưa:

Trên mặt sông lớn, cốt lấy cung tên làm đầu.

Du nói: Lời tiên sinh hợp ý tôi lắm. Hiện trong quân đang thiếu tên bắn, phiền tiên sinh trông nom tương hỗ cho việc làm mười vạn tên. Đây là việc công, tiên sinh không nên từ chối.

Khổng Minh nói: Đô Đốc đã sai, tôi xin rất là. Xin hỏi mười vạn tên lúc nào dùng đến?

Du hỏi: Trong mười hôm có làm xong không?

Khổng Minh nói: Quân Tào nay mai sắp đến, nếu đợi mười ngày e việc lớn hỏng mất.

Du hỏi: Tiên sinh liệu mấy hôm thì xong?

Khổng Minh thưa: Trong nội ba ngày sẽ nộp đủ mười vạn tên.

Du nói: Việc quân không phải trò đùa đâu.

Khổng Minh nói: Đâu có dám đùa với Đô Đốc, tôi xin làm giấy cam kết. Nếu ba ngày không xong cam kết chịu trọng tội.

Du mừng lắm, gọi ngay quan Chính Tư, mang đồ văn phòng ra làm tờ cam kết, rồi mở tiệc khoản đãi và nói:

Khi nào xong việc xin có đền đáp.

Khổng Minh nói: Hôm nay đang không kịp rồi, ngày mai khởi đầu làm, đến ngày thứ ba, xin Đô đốc sai năm trăm quân đến bờ sông nhận tên đem về. Khổng Minh uống thêm vài chén rồi từ biệt.

Lỗ Túc hỏi Chu Du: Người này còn có nói khoác chăng?

Du nói: Rõ ràng hắn tự mua lấy cái chết, chớ ta cũng không bắt ép gì hắn. Hôm nay đông đủ mặt những quan, làm tờ cam kết, dù hắn có mọc cánh cũng không mờ thoát. Ta dặn bọn thợ cố làm dây dưa và không cấp đủ cho vật dụng, tất yếu hắn lỡ hạn. Khi ấy ta trị tội, xem có kêu ca được nữa không. Tử Kính thử sang thăm dò tình hình, về báo cho ta biết.

Lỗ Túc vâng lệnh đến gặp Khổng Minh.

Khổng Minh nói: Ta đã bảo Tử Kính, đừng rỉ tai gì với Công Cẩn e Công Cẩn lại tìm kế hại ta. Không ngờ Tử Kính không biết giấu giếm hộ, ngày hôm nay quả nhiên lại sở hữu chuyện. Trong ba ngày làm thế nào vót nổi mười vạn tên. Tử Kính phải cứu ta mới được.

Túc nói: Ông tự rước lấy tội, tôi biết cứu làm thế nào giờ đây?

Khổng Minh nói: Tử Kính cho ta mượn ba chục tay thuỷ thủ tốt. Trên thuyền căng vải xanh che chung quanh và vặn hơn nghìn hình nhân bằng rơm xếp đứng hai bên mạn thuyền. Ta sẽ có được kế. Đến ngày thứ ba, ta bảo vệ được đủ mười vạn tên cho mà xem, nhưng chớ khiến cho Công Cẩn biết nữa, nếu hắn biết thì kế ta hỏng mất.

Túc vâng lời nhưng chưa làm rõ mưu mô Khổng Minh ra sao? Lúc về gặp Chu Du, quả nhiên Túc không hề đả động đến việc mượn thuyền chỉ bảo không thấy Khổng Minh dùng đến tre gỗ lông chim sơn nhựa gì cả, chỉ nói rằng sẽ có được cách.

Du ngạc nhiên nói: thử đợi đến hôm thứ ba xem sao?

Lỗ Túc cắt riêng hai chục chiếc thuyền nhanh nhẹ, mỗi chiếc ba chục người bơi, đủ đồ vải căng, cỏ bó dự bị sẵn sàng cho Khổng Minh. Ngày thứ nhất không thấy gì, ngày thứ hai cũng vậy. Mãi đến hôm thứ ba độ canh tư, Khổng Minh mới lén sai người mời Lỗ Túc xuống thuyền.

Túc hỏi: lấy tên ở đâu?

Khổng Minh nói: Tử Kính không phải hỏi, cứ đi sẽ biết.

Nói rồi sai lấy thừng chạc ràng cả hai chục chiếc thuyền làm một cho bơi thẳng lên phía Bắc.

Đêm ấy sương mù phủ kín trời, trên mặt sông lại càng sầm uất, giáp mặt không trông thấy nhau. Khổng Minh giục quân chèo thuyền đi thật gấp. Quả thật là một buổi sương mù rất đẹp, rất nên thơ.

Lỗ Túc sợ hãi hỏi: Quân Tào ùa ra thì làm thế nào?

Khổng Minh cười đáp: Tôi chắc Tào Tháo thấy sương mù thế này sẽ không còn đủ can đảm cho quân ra. Chúng mình cứ yên chí uống rượu làm vui, đợi lúc nào sương tan thì về.

Canh năm đêm ấy thuyền đến sát thuỷ trại Tháo. Khổng Minh sai đỗ thuyền trở lại hướng tây, dàn thành hàng nhất, rồi đánh trống và hò reo ầm ĩ. Mao Giới, Vu Cấm vội vàng phi báo với Tào Tháo. Tháo truyền lệnh rằng: Sương mù dày đặc, quân giặc kéo đến bất thần tất có mai phục, tránh việc khinh động.

Tháo chỉ ra lệnh cho quân cung nỏ bắn tứ tung ra, lại sai người lên trại cạn gọi Trương Liêu, Từ Hoảng, từng người dẫn ba ngàn quân cung nỏ cấp tốc đến bờ sông trợ chiến. Hiệu lệnh đến nơi thì Vu Cấm, Mao Giới sợ quân Nam tràn vào thuỷ trại, đã sai quân bắn rào rào ra rồi. Một lát quân trên cạn cũng đến ước hơn vạn người, đều chĩa vào chỗ có trống bắn tới như mưa. Khổng Minh một mặt cứ việc thúc trống reo hò ầm ĩ. Khi mặt trời đã mọc, sương mù tan dần. Khổng Minh sai thu thuyền về, những bó cỏ trên hai chục chiếc thuyền, bó nào thì cũng chi chít những tên cắm.

Khổng Minh sai quân sĩ đồng thanh reo to lên rằng:

Tạ ơn Thừa Tướng giúp tên.

Khi quân vào báo cho Tháo biết, thì thuyền nhẹ nước xuôi đã ra đi hàng trăm dặm rồi, đuổi không kịp nữa. Tào Tháo tức bực vô cùng.

Khổng Minh quay thuyền về nói với Lỗ Túc rằng:

Mỗi thuyền được ước lượng năm sáu ngàn tên mà không tốn chút công sức của con người nào của Đông Ngô cả. Thế là đã được hơn mười vạn tên, nay mai lại đem tên ấy bắn lại quân Tào, chẳng tiện lắm ư?

Phê bình việc mượn tên, ông Mao Tôn Cương nói:

Điểm tuyệt diệu mỗi lúc Khổng Minh dùng kế là giỏi mượn. Muốn phá quân bắc, Khổng Minh mượn binh đội Giang Đông, giúp Giang Đông Khổng Minh mượn tên quân bắc. Vừa mượn Đông, vừa mượn Bắc. Lấy tên mượn thuyền của Lỗ Túc. Khiến Tào Tháo ngờ vực, Khổng Minh mượn sương mù trên sông. Đã mượn của người lại còn mượn cả của trời. Binh cũng mượn, tên cũng mượn thì sau này cớ sao Kinh Châu không mượn nốt nhỉ.

Tây Phương cũng như Đông Phương, những chính trị gia thường rất là chú trọng đến yếu tố mượn. Bởi vì tranh thiên hạ, đoạt cơ quan ban ngành thường trực bao giờ cũng bắt nguồn từ không đến có, từ nhỏ đến lớn (vô sinh hữu chi lực, tiểu biểu đại chi lực) từ một tia lửa trở thành vụ cháy to (de l’étincelle jaillit en flammes)

Ở lịch sử Trung Quốc, quy luật mượn được khai thác triệt để trong mọi hành vi chính trị. Mượn là gì?

Mượn là lấy ở người tiêu dùng cho mình. Mượn lực người làm lực ta, mượn công người bồi đắp việc ta. Ông Quản Trọng nói: Thánh nhân thiên dụng phi kỳ hữu sử phi kỳ nhân. (Bậc thánh dùng được cả những gì mình không còn, sai khiến cả những người dân không phải của tớ). Tỉ dụ: Tử Cống mượn Ngô đánh Tề để cứu nước Lỗ, mượn nước Tấn để ngăn ngừa tham vọng của nước Ngô.

Hết thảy mọi thành công xuất sắc đều nhờ biết tận dụng hết mức và đúng mức những lực lượng thiết yếu. Hán Bái Công chỉ là một người đình trưởng nhưng nhờ tài dụng nhân nên thành công xuất sắc. Lý Tư có tài năng, tuy nhiên nếu không nhờ Lã Bất Vi làm thế nào Lý Tư hoàn toàn có thể đắc chí ở Tần? Lã Bất Vi cực giàu sang nhưng cũng phải nhờ Tử Sở (còn Tử Sở?) cũng phải nhờ vào Lã Bất Vi để gìn giữ cái thế của chính anh ta.

Muốn lấy ở người tiêu dùng cho ta, lấy lực người làm lực mình, mượn công sức của con người người bồi đắp việc ta thì trước hết phải nghiên cứu và phân tích để phát hiện ý muốn của yếu tố vật (la découverte de la volonté des choses). Vị kỹ sư xây đập nước, Đk thứ nhất là phải ghi nhận dòng thác đổ theo khunh hướng nào đã. Nói rõ hơn, mượn và dựa chất chứa ý nghĩa: Tìm được sự cộng tác ngặt nghèo (La lutte est une perpétuelle collaboration)

Trong bức thơ gửi cho anh em đảng, một lãnh tụ chính trị nổi tiếng Tây Phương viết: “Tất cả nghệ thuật và thẩm mỹ và làm đẹp đấu tranh chống bạo quyền của ta là phải nghiên cứu và phân tích để hoàn toàn có thể sử dụng được mọi việc, mọi vật. Đồng thời sức tạo kĩ năng lãnh đạo toàn bộ trào lưu”.

Tào Tháo từ Đông Quân đánh vào Duyện Châu, lúc đi Tháo mang theo sứ mạng triều đình để dẹp trào lưu này mà gây binh quyền cho mình.

Khổng Minh cùng Lưu Bị lếch thếch đến Đông Ngô sau khi bỏ trốn khỏi Kinh Châu, nhờ Khổng Minh biết nắm vững tâm ý nóng nẩy kiêu hùng của hai vị lãnh tụ trẻ tuổi Đông Ngô nên lập kế vừa khích vừa thuyết phục để rồi mượn tay Đông Ngô mà xoay chuyển lại thời thế.

Cổ nhân nói:

“Bằng tạ giả, sự bán nhi công bội, thứ trí giả chi sở lạc vi chi dã. Mượn nổi, dựa được thì việc làm có nhiều hiệu suất cao, cho nên vì thế người trí giả thích nghĩ ngợi về điều đó”.

Những lời trên, đáng khiến cho fan hâm mộ Tam Quốc Chí diễn nghĩa tâm ý khơi đào thêm.

10.5. Bàn về những thất bại của Gia Cát Lượng

Thi gia Vương Việt làm mười bài thơ nhan đề là Long Trung thập vịnh. Lời thơ trong Long Trung thập vịnh đều phảng phất xót thương thân thế sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc bản địa.

Bài chiêm bái giếng Đại Giốc, Vương Việt viết:

Nhất mạch tâm tình khởi ngọa long

Độc lân vị toại tế thời công

Cổ kim đa thiểu anh hùng lệ

Tận tại tiên sinh thứ tỉnh trung

(những giọt lệ anh hùng kim cổ đều ở trong nước giếng nơi quê nhà tiên sinh. Thất bại của Gia Cát Lượng trở thành thất bại điển hình, những nhà chính trị đời sau truyền nhiễm nho giáo, mỗi lần thất bại đều thấy hay miễn cưỡng cảm thấy anh linh Gia Cát hiện về với họ.)

Sinh thời Khổng Minh, ông thường tham vọng:

Sử phi thường chi thế, kiến phi thường chi nghiệp (ở đời khác thường, làm sự nghiệp khác thường)

Cùng tác độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ (cùng thì tự tốt lấy ta, đạt thì đem niềm sung sướng cho thiên hạ)

Thế mà rút cục sự nghiệp phi thường hỏng, độc thiện kỳ thân không được, kiêm thiên hạ cũng hão huyền. Mặc dù ông đã gắng hết lực mình cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ (chăm chỉ tận tụy, chết mới thôi). Tam quốc chí diễn nghĩa diễn tả tâm trạng Gia Cát lúc chết thật bi ai:

Khổng Minh gượng bệnh sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ, ra trại đi xem những dinh. Gió thu thổi mạnh, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng: Từ đây ta không hề được ra trận đánh giặc nữa. Trời xanh thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi.

Muôn việc chẳng qua do số phận

Người sao cưỡng lấy được lòng trời.

Trước khi đi vào những thất bại thực tiễn của Khổng Minh tưởng cũng nên bàn qua yếu tố lòng trời, mệnh vận riêng với những người Trung Quốc. Có hai ý niệm về yếu tố này. Một xấu đi mê tín dị đoan dị đoan coi mệnh vận là bất di bất dịch do bàn tay tạo hóa định sẵn, ý niệm mê tín dị đoan dị đoan được đại hầu hết quần chúng và không ít trí thức giả tin theo. Còn rất ít phần trí thức biết trách nhiệm của tớ thì coi mệnh vận và lòng trời là yếu tố biến hóa tranh đấu không những con người hoàn toàn có thể thay trời mà hành đạo. Như Trương Tải nói: Vì trời đất lập tâm, vì sinh dân lập mệnh, kế túc cái học gián đoạn của bậc thánh, vì vạn đời mở thái bình. Bởi vậy người chân trí thức không tin không sợ mệnh nghĩa là luôn luôn phải có thái độ thấy thời cơ thì làm (quân tử kiến cơ nhi tác). Ta khởi đầu cho những người dân sau tiếp tục, thành bại không do một đại dịch chuyển.

Như thế sự thất bại của Gia Cát chỉ là thất bại của một chánh trị gia trước cơ quan ban ngành thường trực toàn nước Trung Quốc. Nhưng nếu về công cuộc thống nhất lớn lao của dân tộc bản địa thì phần góp phần của Khỏng Minh không phải nhỏ. Đứng trên lập trường trách nhiệm trí thức thì Khổng Minh không thất bại chút nào. Tinh thần “Tri bất khả nhi vi” trong nho giáo là tinh thần không vụ lợi, đã được Khổng Minh tu dưỡng đến cao độ. Trên thực tiễn chính trị, Gia Cát Lượng chịu đựng hai thất bại nặng nề có tính chất quyết định hành động quân sự chiến lược cũng như nhân sự là hai sở trường của Khổng Minh, tại sao ông lại để đến nông nỗi trời thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi.

Lấy được vị trí căn cứ địa Tây Xuyên rồi, Gia Cát Lượng lập hai sách lược: Bình man và phạt Ngụy.

Sách lược Bình man dẫn đến việc Nam Chinh vượt sông Lư Thủy, bẩy lần bắt bẩy lần tha Man Vương Mạnh Hoạch. Sách lược phạt Ngụy dẫn đến việc sáu lần ra Kỳ Sơn.

Sách lược thứ nhất vận dụng lề lối công tâm chiến của Mã Tắc. Khổng Minh hoàn toàn thành công xuất sắc, những dân tộc bản địa biên cương không hề là một mối lo sau sống lưng cho Thục nữa. Sách lược thứ hai hoàn toàn thất bại.

Thất bại trên sách lược phạt Ngụy liên hệ đến yếu tố nhân sự. Sự thất bại không phải do Gia Cát mà ra, hầu hết do lỗi Quan Vũ phá hoại chủ trương Liên Ngô mà nên.

Gia Cát Lượng ngay từ lúc ở Long Trung đã nói tới đánh Ngụy, ông dự tính đem nòng cốt ra vùng Hồ Bắc chứ không lấy Tứ Xuyên làm khởi điểm. Kế hoach của ông là lấy binh Kinh Châu đánh mạnh vào Uyển Lạc tức khu vực lòng ruột của thành Hứa Xương nhà Ngụy. Ngoài ra binh Ích Châu Tân Xuyên đánh tới chỉ có trách nhiệm tương hỗ.

Kinh Châu mất, nòng cốt do Lưu Bị cầm đem tới cứu bị thua. Sách lược phạt Ngụy đến thời gian hiện nay chẳng qua chỉ từ là mớ giấy lộn. Chuyển binh quay vòng về Kỳ Sơn để đánh Trung Nguyên là một chuyện ảo tưởng. Đến việc sáu lần ra Kỳ Sơn, fan hâm mộ Tam Quốc chí diễn nghĩa sơ ý, không biết rằng yếu tố xuất binh phạt bắc trước sau vỏn vẹn có năm lần. Tổng quát cả năm lần xuất binh, nói về kế hoạch cơ bản đều thất bại, nói về giải pháp quá nửa thành công xuất sắc. Tuy nhiên những thành công xuất sắc giải pháp không cứu vãn nỗi thất bại kế hoạch. Đấy là nguyên nhân làm cho con người quân sự chiến lược kỳ tài trở thành một nhân vật của vở thảm kịch Tam Quốc, mà kẻ làm cho Gia Cát Lượng táng mạng không còn ai xa lạ, đó đó là Hán Thọ Đình Hầu Quan Vân Trường. Khổng Minh năm lần Bắc phạt, trên giải pháp trừ lần thứ nhất Mã Tắc vi phạm tiết độ và lần thứ năm ông bị bệnh chết không khiến được những thành tích lớn. Còn mỗi lần khác, như lần thứ hai chém được tướng Ngụy là Vương Song, lần thứ ba thu phục hai quận Vũ Đô và Âm Bình, lần thứ tư bắn chết Trương Cáp.

Cả năm lần xuất binh Gia Cát Lượng đều phải kiệt lực chống với quân địch ghê gớm của toàn bộ nhà quân sự chiến lược là: yếu tố binh lương do đường giao thông vận tải lối đi bộ trở ngại vất vả. Mặc dù ông đã ý tưởng sáng tạo ra trâu gỗ ngựa máy, nhưng cũng không lại. Rút hết kinh nghiệm tay nghề của bốn lần trước, lần thứ năm Gia Cát Lượng xử lý và xử lý bằng phương pháp đồn điền, cho quân nhân tập cư với dân chúng vừa cày cấy giúp dân vừa tiến đánh Ngụy quân. Tuy nhiên phương pháp đồn điền cũng chỉ tạm xử lý và xử lý được một phần rất nhỏ vì ruộng đất, cày cấy ở đây thiếu. Hơn nữa bên phía Ngụy, Tư Mã Ý vận dụng kế hoạch trường kỳ nhất định không chịu giáp chiến. Tam Quốc chí diễn nghĩa kể:

Khổng Minh dẫn một toán quân đóng ở gò Ngũ Trượng đã nhiều lần sai người ra khiêu chiến, Ngụy quân nhất định không ra. Khổng Minh bèn lấy một chiếc khăn, cái yếm và đồ trắng của đàn bà đựng vào một trong những chiếc hòm rồi viết thư sai người đưa tới trại Ngụy.

Các tướng không đủ can đảm giấu giếm, dẫn người đưa thư vào trình làng Tư Mã Ý. Ý sai mở hòm ra xem thấy có yếm áo đàn bà và một phong thư. Trong thư nói rằng:

Trọng Đạt đã làm Đại Tướng, thống lĩnh quân Trung Nguyên, không đủ can đảm mặc giáp cầm gươm để quyết sống mái mà chịu ngồi núp ở trong ổ trong hang để lánh lưỡi dao mũi tên, thế thì khác gì đàn bà? Nay sai người đưa khăn yếm, quần áo trắng của đàn bà đến, nếu không đủ can đảm ra thì phải lạy hai lạy mà nhận lấy, nếu còn biết xấu hổ có chí khí người con trai thì phải phê vào giấy này, y hẹn ra giao chiến.

Tư Mã Ý xem xong trong bụng căm giận, nhưng cũng gượng cười nói rằng: Khổng Minh coi ta như đàn bà ư. Liền chịu nhận đồ ấy, trọng đãi người đưa thư.

Đánh Ngụy chỉ từ một kỳ vọng nữa là Đông Ngô đánh úp Ngụy mà thôi. Nhưng đến lúc Phí Vĩ đến báo cho Gia Cát biết rằng: Tào Tuấn nghe Đông Ngô ba mặt tiến quân, cũng dẫn đại quân đến Hợp Phì, sai Mãn Sủng, Diễn Lự, Lưu Thiệu chia quân làm ba mặt chống cự. Mãn Sủng bày mẹo đốt sạch con thuyền và lương thảo khí giới của Đông Ngô. Không làm ra chuyện gì, phải rút quân trở về.

Khổng Minh nghe tin ấy, thở dài một tiếng, không ngờ ngất đi ngã gục xuống đất. Mấy hôm sau Khổng Minh chết. Sách lược Bắc phạt thất bại hẳn.

Nói thất bại trên yếu tố nhân sự hay nói theo tân tiến nghĩa là thất bại trên chủ trương cán bộ.

Chính sách cán bộ gồm có ba phần:

a) biết người

b) dùng người

c) Nuôi dưỡng, đào tạo và giảng dạy tài năng

Thất bại trên chủ trương cán bộ của Gia Cát Lượng gây ra với những nguyên nhân thuộc cả chủ quan lẫn khách quan.

Nguyên nhân khách quan là nước Thục không còn nhân tài nhiều. Căn cứ vào sự kiện: Liêu Hóa làm tiên phong thì đủ rõ.

Thục trung vô đại tướng.

Liêu Hóa tác tiên phong.

Nếu ta chịu khó xem xét tỉ mỉ lý lịch những nhân vật trong pho Tam Quốc chí, sẽ thấy nhân tài phân loại ra sao? Đại khái phân thành bốn khu vực: khu Quan Trung, khu Trung Nguyên, khu Hoài Tứ và khu Kinh Tương. Riêng địa phương Tây Xuyên lại không phải là khu vực sản sinh nhân tài. Sở dĩ Tây Xuyên thiếu nhân tài vì lẽ: đấy là khu vực mà nền giáo dục hãy còn lỗi thời. Trước kia do loạn ở Trung Nguyên, nhân tài di tán tới Tây Xuyên nhưng lúc thế chia ba đã rõ rệt, họ lại trở về Trung Nguyên hết.

Thêm vào đấy, chủ trương vơ vét nhân tài của Tào Thào giỏi quá, theo Ngụy Chí bản truyện thì Tào Tháo cần người tài giỏi như người chết khát đòi uống nước, làm cho những lãng tử đa tài về quy phục Tháo đông như kiến.

Tam Quốc chí diễn nghĩa cho ta biết tình trạng thiếu cán bộ của Thục Quốc qua những sự kiện:

Khổng Minh thu quân thắng trận về trại, sắp sửa cất quân tiến đi. Có người ở Thủ Đô lại phục vụ thông tin Trương Bào mất, Khổng Minh khóc ầm lên, miệng thổ huyết, ngất đi, ngã lăn xuống đất. Chúng vội vã cứu dậy, từ đó mắc bệnh. (hồi thứ chín mươi chín)

– Tư Mã Ý gọi người về hỏi han chuyện Khổng Minh ăn ngủ cùng là việc làm nhiều ít ra sao.

Sứ giả bẩm rằng:

Thừa tướng tôi thức khuya dậy sớm, hình phạt từ hai chục roi trở lên cũng phải coi xét đến mà mỗi ngày chỉ ăn được vài thưng mà thôi.

Ý quay trở lại bảo với những tướng rằng:

“Khổng Minh ăn ít làm nhiều, sống lâu làm thế nào được” (hồi 103)

Nguyên nhân chủ quan là Khổng Minh chỉ biết người, biết dùng, nhưng không biết đào tạo và giảng dạy người, thiếu hẳn kế hoạch tu dưỡng cán bộ. Ông chết đi không còn lấy một người đủ kĩ năng thừa kế sự nghiệp bỏ dở dang. Vì không còn ai lãnh đạo, nên ngay sau khi ông mất, nội bộ văn quan có tranh chấp giữa Phí Vĩ, Tưởng Uyển. Có một mình Khương Duy thì Duy lại vô quyền, hơn thế nữa Duy cũng chỉ giỏi việc quân cơ nhưng kém mặt chính trị.

Cổ nhân luận về kiểu mẫu một chính trị gia lý tưởng như sau:

“Đức hạnh cao diệu, dụng chỉ khả pháp. Kỳ đức túc dĩ lệ phong tục kiến lập pháp chế; cường quốc phú dân. Kỳ pháp túc dĩ chính thiên hạ, tư thông đạo hóa. Sách mưu kỳ diệu”

Ý nói: chính trị gia lý tưởng phải là người dân có nhãn quan xa rộng, nhận rõ thời đại, học vấn quảng bác, tư tưởng chu đáo, có kế hoạch an bang tế thế, giỏi ứng phó với tình hình nhân sự, can đảm và mạnh mẽ và tự tin gánh vác trách nhiệm biết đùng đạo đức, dám nói và dám làm.

Chỉ có Vũ hầu Gia Cát Lượng Khổng Minh là nhân vật duy nhất trong Tam Quốc hoàn toàn có thể mang so sánh với mẫu người chính trị lý tưởng của cổ nhân mà thôi. Tuy nhiên Khổng Minh vẫn kém Tháo trên ý thức thực tiễn khả dĩ ứng phó với xã hội nhiễu nhương xã hội Tam Quốc.

Đọc lại những lời tha thiết trong bài biểu ở đầu cuối:

“Tôi chết đi không để trong nhà có tấm lụa thừa, hay có chút của riêng để phụ lòng bệ hạ đâu.”

Người đọc đều phải có chung một cảm hứng yêu mến kính phục mẫu người chính trị lý tưởng Gia Cát Lượng.

10.6. Thất thủ Nhai Đình

Mã Tắc không tuân lời Gia Cát Khổng Minh để mất Nhai Đình thật là một vết thương chí mạng cho Vương nghiệp nhà Thục, đồng thời cũng là một thất bại lớn trong đời chánh trị của Khổng Minh. Mã Tắc còn gây ra chia rẽ trong nội bộ nước Thục để tạo thành môi trường tự nhiên vạn vật thiên nhiên cho việc đổ vỡ của nước Thục.

Sự thể như dưới đây:

Lưu Bị đến Ba Thục lập vương nghiệp, chủ trương quy tụ nhân tài khi đem ra thực thi, trên hiện tượng kỳ lạ ta thấy có người bốn phương kéo tới, nhưng sự thực nòng cốt cán bộ đều chỉ trông cậy vào tập đoàn lớn lớn trí thức vùng Kinh Châu.

Khổng Minh là thủ lãnh tập đoàn lớn lớn Kinh Châu.

Sau khi Lưu Bị chết, thì nhân sự Thục liền phân thành hai phái của tiên chủ và phái của Gia Cát.

Phái tiên chủ với những người dân cốt cán như: Ngụy Diên, Trương Dực, Vương Bình, Hứa Từ, Tiều Chu, v.v…

Hai phái chống đối nhau.

Phái Khổng Minh giỏi hơn và nắm nhiều quyền hơn, tuy nhiên phái tiên chủ lúc nào thì cũng hục hặc không chịu và mưu toan giành giật quyền lại.

Các chiến tướng giỏi như Ngụy Diên và Triệu Vân không ưa tập đoàn lớn lớn Khổng Minh nên dùng đủ mọi cách chống đối, ngược lại Khổng Minh cũng luôn luôn thiết kế chấn áp nhóm Diên. Mã Tắc nguyên quán Tương Dương, là một trí thức có hạng của tập đoàn lớn lớn Kinh Châu. Nhờ Khổng Minh nâng đỡ, nên thăng quan tiến chức rất nhanh. Mã Tắc giỏi biện thuyết về quân kế cho nên vì thế Gia Cát dụng làm tham quân. Khổng Minh thường cùng Mã Tắc đàm luận thâu đêm.

Năm Kiến Hưng thứ ba, Gia Cát Lượng đem binh bình định phía Nam. Mã Tắc tiễn ra ngoài mười dặm, bày mưu bẩy lần tha Mạnh Hoạch để thu phục nhân tâm.

Theo những sách khác thì đại khái Mã Tắc giỏi như vậy. Nhưng ở Tam Quốc chí diễn nghĩa thì lại sở hữu câu: “Mã Tắc là người ngôn quá kỳ thực, không thể dùng thao tác lớn được” của Lưu Bị nói với Khổng Minh.

Sách nào sai, sách nào đúng, Mã Tắc giỏi hay là không giỏi, giờ đây toàn bộ chúng ta không thể đoán được.

Nhưng việc Mã Tắc ghi trong nhiều sách đều mang những điểm giống nhau, để chứng dẫn cho ta biết rằng:

a) Có xích míc trong nội bộ Thục giữa hai phái Tiên chủ và phái Gia Cát Lượng

b) Mã Tắc làm mất đi Nhai Đình làm cho xích míc nổ bùng thành tranh chấp trong nội bộ Thục.

c) Gia Cát có lầm lỗi về việc dùng người, trong hành vi quá thiên tư riêng với tập đoàn lớn lớn trí thức Kinh Châu, ở đây Gia Cát đã phản lại phương châm: lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ của ông đã nêu ra.

Năm Kiến Hưng thứ sáu, Gia Cát Lượng xuất binh Kỳ Sơn đánh Ngụy. Lần này, ai cũng nghĩ Ngụy Diên sẽ tiến hành lãnh chức tiên phong, nên ai cũng ngạc nhiên khi thấy chức này Khổng Minh lại phó thác cho Mã Tắc.

Để ứng chiến, Ngụy Đế là Tào Sảng (Tuấn?) sai Trương Cáp cầm quân. Hai bên giáp nhau ở Nhai Đình.

Kể về hình thế và lực lượng thì quân Thục chiếm ưu vị vì quân đã đông lại thêm địa hình hiểm trở. Còn quân Ngụy thì quân đã ít lại ở đoạn bất lợi.

Thế mà kết quả thật không ngờ, quân Thục tan vỡ chạy tán loạn, quân Ngụy thừa thắng chiếm Nhai Đình.

Thất bại, đương nhiên lỗi tại Mã Tắc. Theo Tam Quốc chí diễn nghĩa thì nguyên nhân thất bại là tại Mã Tắc không tuân lệnh Thừa Tướng, không nghe can gián của Vương Bình.

Mã Tắc thua rồi Khổng Minh chỉ từ một nước là lui binh. Dư luận ở Thục sôi sục, phái tiên gia chủ chuyện Mã Tắc cực lực công kích Gia Cát Lượng. Không thể bênh vực được Mã Tắc nữa, Gia Cát Lượng đành phải đem ra xử. Toàn thể tập đoàn lớn lớn Kinh Châu cũng không chịu và buộc Khổng Minh phải cứu Mã Tắc.

Nhưng tội Mã Tắc đã rành rành. Địa vị Gia Cát Lượng thật rất là trở ngại vất vả.

Công việc chưa ngã ngũ, thì một chuyện động trời xẩy ra. Hướng Lãng, bí thư trưởng của Khổng Minh, nửa đêm tương hỗ cho Mã Tắc vượt ngục. Cuộc vượt ngục không thành công xuất sắc vì bị phái Tiên chủ mày mò. Phái tiên chủ luôn luôn kết tội Mã Tắc có ý đầu hàng Ngụy.

Gia Cát Lượng đành phải gạt lệ chém Mã Tắc và cất chức Hướng Lãng rồi dâng sớ nhận tội sơ suất.

Cũng từ đây Gia Cát Lượng bị tập đoàn lớn lớn Kinh Châu chê bai là nhẫn tâm, đồng thời cũng trở nên phái tiên chủ chỉ trích là con người tư tâm, nên ông ưu uất thành bệnh nặng.

10.7. Ngụy Diên tạo phản và tình hình Ba Thục

Khổng Minh chết ở Ngũ Trượng Nguyên, tang chế chưa xong thì nội bộ đã phát sinh xung đột. Dương Nghi và Ngụy Diên đem binh đánh lẫn nhau. Kết quả Dương Nghi thắng lợi, Ngụy Diên táng mạng. Đời sau chịu ràng buộc Tam Quốc Chí diễn nghĩa, lên án kết tội Ngụy Diên là phản loạn. Tính chất truyền kỳ Tam Quốc Chí diễn nghĩa với nghệ thuật và thẩm mỹ và làm đẹp quá cao phổ vào những sự kiện như sau sống lưng Ngụy Diên có xương chồi hình tướng của phản loạn, cẩm nang Khổng Minh trao cho Dương Nghi thách Ngụy Diên, không sao cởi gỡ được.

Ở đây tôi xin nêu lên ít luận cứ, để tìm hiểu sự thực về vụ Ngụy Diên tạo phản.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể:

Phí Vĩ đến trại Ngụy Diên, đuổi tả hữu ra ngoài nói:

Canh ba đêm ngày hôm qua Thừa tướng qua đời rồi. Lúc gần mất có căn dặn lại, sai tướng quân dẫn quân đi sau để chống lại quân Tư Mã Ý. Quân ta phải từ từ rút về, không được phát tang. Nay binh phù ở đây, xin tướng quân cất đi cho.

Diên hỏi: Ai coi thay việc cho thừa tướng?

Vĩ nói: Nội là việc làm to tát, thừa tướng giao cho Dương Nghi, mật pháp dùng binh thì giao cho Khương Bá Ước, binh phù này là của Dương Nghi đây.

Diên nói: Thừa tướng tuy mất, còn tồn tại ta đây. Dương Nghi chẳng qua là một chức Trưởng sử, gánh nổi sao được việc to này. Hắn nên làm rước ma về Xuyên an táng để ta cầm quân đánh nhau với Tư Mã Ý, cố cho thành công xuất sắc, có đâu vì một mình thừa tướng mà bỏ mất việc to nhà nước được.

Vĩ nói: Thừa Tướng di chúc lại bảo hãy tạm rút về, tránh việc trái lời.

Diên nổi giận: Nếu thừa tướng nghe mẹo ta khi xưa thì lấy được Tràng An lâu rồi. Ta nay làm Chinh tây đại tướng quân Nam trịnh hầu, lại thèm đoạn hậu cho Trưởng sử à.

Vĩ nói: Tướng quân nói phải lắm, nhưng cũng tránh việc khinh động, quân giặc chê cười cho. Vậy để tôi đem lẽ lợi hại bảo Dương Nghi để hắn nhường binh quyền cho Tướng quân. Tướng quân nghĩ sao?

Diên y lời, Phi Vĩ từ về trại lớn, trình làng Dương Nghi thuật lại chuyện đó.

Nghi nói: Thừa tướng lâm chung có mật bảo ta rằng Ngụy Diên tất sinh bụng kia khác. Ta cho binh phù ra sai, là muốn dò bụng hắn đấy thôi. Nay quả nhiên như lời Thừa Tướng thật, ta sai Bá Ước đoạn hậu cũng xong.

Bởi thế Dương Nghi đưa ma về trước, Khương Duy đi giữ mặt sau tuân lời Khổng Minh từ từ rút về. Ngụy Diên ngồi chờ trong trại, lâu không thấy Phi Vĩ trở lại, trong bụng nghi ngại, liền cho Mã Đại dẫn vài tên kỵ dò xem tin tức thế nào. Mã Đại về nói rằng: Khương Duy tổng đốc hậu quân, còn tiền quân lui về trong cửa hang cả rồi.

Diên nổi giận nói: Quân hủ nho dám lừa dối ta. Thế nào ta cũng giết được mới nghe

Diên ngoảnh lại bảo Mã Đại rằng: Ông có chịu giúp tôi không?

Đại nói: Tôi vốn cũng ghét Dương Nghi, xin vui lòng giúp Tướng quân.

Diên mừng lắm, lập tức nhổ trại, kéo quân bản bộ về phía nam.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa nhận định rằng mầm loạn bắt nguồn từ sau cái chết của Vũ Hầu, thật ra xung đột Ngụy, Dương âm ỷ tích oán đã từ lâu, cái chết của Vũ Hầu chẳng qua chỉ là một tình hình, thuở nào cơ để xung đột Ngụy, Dương bùng nổ thành tranh chiến.

Ngụy Diên vốn là một viên tướng lãnh đạo bộ khúc đi theo Lưu Bị, nhân vì lập được nhiều chiến công mà thăng quan tiến chức lớn. Lưu Huyền Đức chiếm xong Hán Trung quay trở về Thủ Đô, nên cần tuyển lựa người trấn thủ Hán Trung. Ai ai cũng tiến cử Trương Phi và chính Trương Phi cũng tự nguyện. Nhưng vua Thục lại chọn Ngụy Diên làm cho mọi người ngạc nhiên, chính bới sau Trương Phi còn tồn tại Triệu Tử Long là những công thần thân cận với vua Thục, đồng thời cũng là tướng tài, chứ đâu đã tới lần Ngụy Diên. Việc giao trọng trách trấn thủ Hán Trung cho Ngụy Diên chứng tỏ tài lược của người này vượt cả Trương Phi, Triệu Vân lẫn Vân Trường. Tài lược Ngụy Diên đã rõ ràng trong kế hoạch mà Diên hiến cho Gia cát Lượng lúc sửa soạn đem quân bắc phạt, xin cho mình đánh úp Tràng An. Nhưng Khổng Minh không nghe, nhận định rằng quá ư mạo hiểm. Nếu nghe kế Diên chắc Khổng Minh không biến thành vố bại sâu cay thất thủ Nhai Đình do viên tướng mà Lưu Bị xét đoán là người nói quá thực sự tên Mã Tắc.

Căn cứ vào những ghi chép sử sách khác thì lúc Vũ hầu bị trọng bệnh, bèn phó thác cho Ngụy Diên xử lý hết những việc của tớ. Diên và Dương Nghi vốn vẫn hiềm thù nhau. Nghi sợ Diên nắm quyền Thừa Tướng sẽ hại mình, liền phao tin Ngụy Diên làm phản, định đầu hàng quân Bắc. Nghi được Phí Vĩ, Tưởng Uyển về hùa nên đốc quân đánh úp Diên. Diên thua chạy bị Nghi giết chết.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa và những thuyết thấy trong những sách sử khác đều phải có những điểm đáng ngờ, không chắc bên nào là thực.

Gia Cát Lượng định thoái quân tất yếu phải cho toàn bộ Ngụy Diên biết chứ sao lại chỉ báo riêng với Phí Vĩ và Dương Nghi? Nếu bảo là nghi Ngụy Diên, sao Gia Cát Lượng vẫn cho Diên đi hộ tống đoạn hậu để bảo vệ cuộc rút lui.

Gia Cát Lượng phó thác toàn quyền bính cho Ngụy Diên thì toàn bộ lực lượng sẽ nằm gọn trong tay Diên, Dương Nghi là một vị quan văn, lấy gì mà đánh giết được Ngụy Diên?

So sánh những điểm vô lý ta hoàn toàn có thể đưa ra một giả thuyết mà tìm tới gần thực sự hơn là cái chết của Khổng Minh đột ngột quá nên ông không kịp đặt kế hoạch lui quân. Bọn Dương Nghi, Phí Vĩ thủ đoạn với nhau kế hoạch này.

Diên chống lại Nghi và Vĩ. Nghi, Vĩ và Diên đều cố về vận động ở Thủ Đô, nhưng Diên cô lập vì Tưởng Uyển ủng hộ Nghi, Vĩ. Quân lính theo Diên thấy Diên kém thế liền bỏ Diên. Ít quân, Diên bị Nghi giết. Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa người ta nhận thấy những đoạn:

Tưởng Uyển tâu rằng: Cứ ý tôi thì Dương Nghi tuy tính khí hẹp hòi, không dung người, nhưng đến việc trù tính lương thảo, tham tán quân cơ cũng giúp được thừa tướng nhiều lắm. Thừa tướng lâm chung phó thác cho việc lớn, quyết không phải là người làm phản. Ngụy Diên xưa nay cậy có công, khinh người, Dương Nghi không chịu nên Ngụy Diên vẫn ghét. Nay thấy Nghi được cầm binh quyền, Diên ganh tị mới đốt đường vu cáo Nghi làm phản. Tôi xin đem già trẻ cả nhà bảo cứ cho Dương Nghi không phải là người làm phản, chớ không đủ can đảm nhiệm cho Ngụy Diên.

Hà Bình được lệnh Dương Nghi kéo quân đến núi Sà Sơn đánh Ngụy Diên. Gặp Diên, Bình quát to mắng rằng: Phản tặc Ngụy Diên.

Diên cũng mắng lại: Mày giúp Dương Nghi làm phản lại dám mắng tao à?

Bình cầm roi trỏ sang đám quân Ngụy Diên nói lớn:

– Quân sỹ chúng mày toàn là người Tây Xuyên, có cha mẹ vợ con anh em ở trong ấy cả. Khi thừa tướng còn, không bạc đãi gì chúng mày. Nay không nên giúp quân phản tặc, nên về cả quê nhà mà chờ đón ơn trên ban thưởng.

Quân sỹ nghe xong reo rầm lên một tiếng rồi tản đi quá nửa.

***

Vậy hoàn toàn có thể kết luận vụ Ngụy Diên là một vụ tư thù, một xích míc chính trị nội bộ vì tranh quyền sau cái chết quá bất thần của Gia Cát Khổng Minh.

Kể từ thời điểm năm Thái Hòa thứ hai, Khổng Minh không ngừng nghỉ xuất binh đánh Ngụy. Năm Thái Hòa thứ hai tức là năm thứ chín của Tam Quốc. Khổng Minh mất vào năm thứ mười của Tam Quốc. Nhà Thục diệt vong vào năm thứ bốn mươi bốn của Tam Quốc. Như vậy thì Thục Hán còn tồn tại thêm 29 năm tiếp theo khi Gia Cát chết. Khoảng 29 năm đó, cơ quan ban ngành thường trực Thục Hán ở trong tay Tưởng Uyển 12 năm, Phí Vĩ bảy năm và 10 năm tiếp theo cùng do Khương Duy. Tưởng Uyển, Phí Vĩ không xuất binh phạt Ngụy lần nào, chỉ có Khương Duy mấy lần mưu toan, nhưng bị Phí Vĩ gàn trở. Phí Vĩ chết, Khương Duy mới thực thi được mộng tưởng, tuy nhiên không những Duy không thành công xuất sắc, trái lại còn gây thêm nhiều nỗi trở ngại vất vả trong nước. Người đương thời cũng như hậu thế đều đổ lỗi cho Khương Duy đã gây can qua làm hại Thục Hán. Thật oan cho Khương Bá Ước, chính bới binh sĩ Tây Thục so với nước Ngụy thua kém rất xa. Ngay lúc sinh thời Gia Cát Lượng, sở dĩ có năm lần phạt Ngụy đó đó là vì nên phải vận dụng kế hoạch dĩ công vi thủ, muốn bảo vệ ta nên tiến công địch. Đời Tưởng Uyển, Phí Vĩ hoàn toàn có thể yên vì nội bộ Ngụy chưa ổn định. Khi họ Tư Mã cướp quyền họ Tào rồi, điều khiển và tinh chỉnh Đặng Ngải, Chung Hội tiến công Tây Thục thì với chín vạn quân Tây Thục không chống đỡ ba mặt với quân số nước Ngụy gần gấp ba. Lẽ ra Tưởng Uyển và Phí Vĩ phải theo kế hoạch Khương Duy tiến công Ngụy giữa lúc tình hình chính trị nội bộ nước Ngụy đang rối loạn mới đúng. Thục Hán mất đó đó là tại chủ trương cầu an của Tưởng Uyển và Phí Vĩ. Giả sử Ngụy Diên chưa chết, chủ trương phạt Ngụy được nhất quyết duy trì chắc tình trạng đã khác đi nhiều.Page 2

Car la force est juste quand elle est nécessaire – Machiavel

Dĩ dật đạo sử dân, tuy lao bất oán. Dĩ sinh đạo sát dân, tuy tử bất oán sát giả – Mạnh Tử

Qua sách sử Trung Hoa, đời Bắc Tống đã có người ghi lại một đoạn bút ký nói rằng: “Những trẻ con trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói tới Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại thì khoái chí reo mừng”.

Đoan bút ký ấy cũng cho ta biết trong cả trước lúc tập Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung Ra đời, dân chúng đã có một nhận xét riêng của tớ: Yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo.

Tâm lý yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo gây ra bởi hai nguyên nhân:

a) Quan niệm chính trị của người Đông Phương cơ bản là sùng bái nhân nghĩa đạo đức, triệt để bài bác quyền thuật cơ mưu.

b) Chịu ảnh hưởng của bọn học phiệt có tư tưởng chính thống và đạo thống.

Như vậy thì bộ Tam quốc chí diễn nghĩa tuy phương diện biên soạn hầu hết là công lao của La Quán Trung, nhưng sự thực bộ tiểu thuyết này đã có một quy trình sáng tác của nhiều người. Ở Tam quốc chí diễn nghĩa ta còn thấy nhà văn La Quán Trung sử dụng đến mức tuyệt diệu nghệ thuật và thẩm mỹ và làm đẹp văn học để làm nổi trội hai bộ mặt thiện, ác tương phản của Tào và Lưu, cùng khơi sâu tâm ý yêu Bị ghét Tháo vẫn sẵn có từ trước.

Điểm này La Quán Trung có đáng trách hay là không? Trả lời, bộ sửa đổi và biên tập của nhà xuất bản Trung Quốc viết:

– “Tam quốc chí diễn nghĩa, khác hoàn toàn với những sách viết về khoa học xã hội. Nhiệm vụ của nó không phải là trình diễn phản hồi hoặc phân tích một cách khách quan trên một số trong những yếu tố lý trí, mà là dùng nghệ thuật và thẩm mỹ và làm đẹp sáng tạo để làm cảm động người đọc, trực tiếp đánh vào tình cảm người đọc”.

Đối với La Quán Trung thì tiểu thuyết viết Tào Tháo không phải là tạo ra nhân vật lịch sử Tào Tháo nguyên hình như cũ, mà là mượn nhân vật lịch sử để sáng tạo ra hình tượng nhân vật và tính cách điển hình rất phong phú phức tạp. Nói một cách khác, trong truyện viết Tào Tháo không phải chỉ là viết Tào Tháo thực trong lịch sử mà là viết ra thật nhiều Tào Tháo trong lịch sử. Chủ yếu của tiểu thuyết là sáng tạo ra một nhân vật điển hình để vạch rõ thói hung tàn nham hiểm của bọn thống trị phong kiến, khiến cho nhân dân quần chúng nhận thức được một cách rõ ràng. Tức là đem toàn bộ những hình tượng tàn ác, bản chất xấu xa bỉ ổi của thống trị phong kiến triệu tập lại, khái quát lên, sáng tạo ra cái nhân vật phản diện Tào Tháo. Phản ảnh như vậy so với cách trực tiếp thể hiện càng thâm thúy hơn, so sánh với trực tiếp tố cáo, tư tưởng tính càng mạnh mẽ và tự tin hơn, đó là một sự thống nhất hoàn hảo nhất giữa tư tưởng và nghệ thuật và thẩm mỹ và làm đẹp tính rất cao vậy.

Về phần toàn bộ chúng ta phản hồi về Tào Tháo, thì toàn bộ chúng ta bàn luận trên cơ sở nào?

Chúng ta sẽ trình diễn, phân tích Tào Tháo trên một số trong những yếu tố lý trí.

Do đó, việc thiết yếu số 1 là một thái độ tuyệt đối khách quan, nghĩa là hãy tước bỏ đúng mức tâm ý yêu ghét bị tuyên nhiễm bởi Tam quốc chí diễn nghĩa.

9.1. Chính thống và đạo thống

Chính thống và đạo thống là bản chất chính trị và tư tưởng học thuật đạo đức của thời đại phong kiến.

– Chính thống là uy quyền do một tập đoàn lớn lớn chính trị muốn kéo thành xâu, thành chuỗi quyền thống trị của tớ tạo ra. Quyền ấy tiếp theo đó theo nguyên tắc cha truyền con nối.

– Đạo thống là một thứ tư tưởng duy nhất, học thuật duy nhất. Khi một khối mạng lưới hệ thống tư tưởng nào đã bám được thế lực chính trị, nắm quyền thống trị, hoặc từ khối mạng lưới hệ thống tư tưởng thông qua đấu tranh mà nắm được cơ quan ban ngành thường trực thì tư tưởng duy nhất, học thuật duy nhất sẽ chỉ chuyên dạy, chuyên khuyến dụ mọi người ủng hộ cơ quan ban ngành thường trực chính thống.

Thời đại phong kiến, kẻ thống trị muốn củng cố vị thế của tớ, hầu hết thường dùng đến chủ trương ngu dân vô cùng thâm độc. Chính sách ngu dân tuy biểu lộ ra bằng nhiều phương thức rất khác nhau, nhưng tóm lại chỉ là yếu tố sử dụng, khai thác triệt để kĩ năng của đạo thống, làm cho quần chúng to lớn không còn dịp tiếp thu bất kể một hiểu biết nào khác ngoài những điều mà bọn thống trị được cho phép.

Tâm lý sùng thượng đạo đức, bài bác quyền thuật cơ mưu trong chính trị là tốt, vì nó mang tính chất chất chất tươi đẹp của tinh thần nhân văn. Nhưng nếu tinh thần nhân văn ấy bị lý luận đạo thống tận dụng thì hóa dở.

Cho nên, muốn tước bỏ được mức tâm ý yêu ghét Lưu Tào, toàn bộ chúng ta không thể không chống cái nền móng của tâm ý ấy là những tư tưởng chính thống, đạo thống của bọn học phiệt tay sai cơ quan ban ngành thường trực phong kiến.

9.2. Tào Tháo là con người thế nào?

Các nhà văn học Trung Quốc thường phân tích về thân phận Tôn Quyền là con nhà quý tộc, Lưu Bị là người kẻ chợ và Tào Tháo là loại dõi môn phiệt. Sở dĩ Tào Tháo ở trong hàng ngũ môn phiệt chính bới cha Tào Tháo là Tào Tung làm quan đến chức Thái Úy và Tháo nhờ thế lực của cha nên hai mươi tuổi đã được cử làm Hiếu Liêm.

Hiếu Liêm là một chức quan nắm quyền cai trị ở cấp bực trung bình của cơ quan ban ngành thường trực địa phương. Chức Hiếu Liêm là thành phầm của nền hành chính Hán Triều. Đời Hán Vũ Đế nêu lên lệ bắt những trưởng quan địa phương mỗi năm phải chọn và đề cử một người thanh liêm, hay một người con hiếu ra chấp chính.

Đặt ra chức này, Hán Vũ Đế muốn lấy Đức Hạnh dùng làm nền tảng cai trị. Ban đầu do sự thi hành đúng nên Hiếu Liêm cũng gây thành phong khí tốt, dư luận hay. Nhưng lần lần, Hiếu Liêm trở thành một thứ hàng độc quyền của những triệu phú, mặt khác nó làm cản bước tiến của trí thức, trở thành đầu mối của tranh chấp Bình dân và Môn phiệt. Hiếu Liêm đã biến chất không hề như ý nguyện của Hán Vũ Đế muốn dùng nó làm chiếc cầu cảm thông giữa quần chúng với cơ quan ban ngành thường trực nữa.

Tào Tháo nhận chức Hiếu Liêm, tất yếu cũng tiếp tục bị trí thức dân dã và quần chúng nhìn bằng con mắt hằn học và cũng trở nên liệt vào hàng phe phái Môn phiệt.

Biết vậy, nên lúc tại chức Tào Tháo đã ra sức chống lại bọn cường hào, đả kích chủ trương hoạn quan. Do đó lúc sang nhận chức ở Tế Nam, bị bọn cường hào cùng bè lũ tay sai hoạn quan oán hận, Tháo sợ gây ra tai ương lớn, bèn từ chức.

Lúc từ chức, Tào Tháo 30 tuổi, ông nói:

– “Cùng chức Hiếu Liêm với tôi có người 50 tuổi mà trông vẫn còn đấy trẻ măng, tôi còn những 20 năm nữa mới bằng họ, vậy tội gì mà không tìm cách ẩn cư đợi thời”.

Tào Tháo lui về quê nhà là Tiêu huyện, dựng một căn phòng thoáng đãng để đọc sách, giồng hoa, săn bắn. Thời gian này Tào Tháo đem hết tâm trí vào việc rèn luyện kĩ năng chính trị, quân sự chiến lược.

Xem thế đủ biết, tuy xuất thân môn phiệt nhưng nhờ nhãn tuyến chính trị sắc bén, Tháo đã gột bỏ tâm chất môn phiệt để nhất định đứng vào hàng ngũ trí thức và quần chúng tiến bộ.

Về quan hệ Nam Nữ, Tam quốc chí diễn nghĩa nhận định rằng Tháo là một người dâm dục, bậy loạn bất cố đạo nghĩa. Tính chất này được chứng tỏ bằng sự kiện Tháo ngủ với những người thím Trương Tú khiến Tú nổi giận làm phản, nhờ Điển Vi quyết tử cứu Tháo và chết thay cho Tháo. Chuyện này chỉ là một câu truyện gán ghép gượng gạo không lấy chi làm thật nhằm mục đích mục tiêu làm tăng giá trị điển hình cho một nhân vật tàn ác, gian hùng mà thôi.

Trong dân gian thì lưu truyền một sự tích tình ái của Tào Tháo trái hẳn với việc Trương Tú. Đó là chuyện nàng Lai Oanh Nhi. Đầu đuôi như sau:

– “Đời Hậu Hán, những ca sĩ đất Lạc Dương nổi tiếng là đẹp là hay. Trong số ấy, có nàng Lai Oanh Nhi vượt hẳn lên cả về tài lẫn sắc.

Tài sắc đã trội hơn người, tính nết nàng còn đặc biệt quan trọng hơn thế nữa. Oanh Nhi rất kiêu ngạo. Biết bao Vương Tôn Công Tử hoài công theo đuổi mà Lai Oanh Nhi trước đó chưa từng để mắt đến người nào.

Tào Tháo rất tinh thông âm luật, lại là một nhà thơ tài tình, gặp giọng hát cùng nhan sắc Oanh Nhi rất lấy làm xứng ý. Bấy giờ Lạc Dương đại loạn nên Lai Oanh Nhi chịu nương nhờ bàn tay che chở của Tào Tháo, theo Tháo đi đánh Đông dẹp Bắc độ nhật nơi doanh trại. Oanh Nhi thường ca hát những bài thi, bài từ của Tào Tháo và những danh sĩ để Tào Tháo uống rượu hân thưởng. Đối với sinh hoạt lưu động, nàng vốn không ưa nên Oanh Nhi lúc nào thì cũng buồn. Tháo tuy chịu tài năng ưa nhan sắc nàng nhưng phần vì việc quân cơ bận rộn, phần vì quý sự nghiệp chính trị hơn nên Tháo ít khi thân thiện. Lai Oanh Nhi lại càng cảm thấy cô quạnh. Chẳng bao lâu, Oanh Nhi đem lòng yêu một chàng thị vệ, đêm đêm vẫn cùng nhau hò hẹn. Quan niệm tình ái của Tào Tháo rất rộng tự do, vả lại ca kỹ trong doanh trại nhiều nên mối tình giữa Lai Oanh Nhi với chàng thị vệ kia cũng gặp rất ít trở ngại. Nhưng một chuyện bất thần xảy đến, chàng thị vệ được lệnh sai đi thám thính đồn lương bên địch, chàng liền đến báo cho những tình nhân biết. Oanh Nhi thấy thiên chức có vẻ như nguy hiểm nên nhất định không chịu rời tay.

Tào Tháo trị quân rất nghiêm, dĩ nhiên theo quân pháp thì bỏ trốn trách nhiệm trong lúc tình thế nghiêm trọng, chàng thị vệ si tình bị phán quyết tử hình. Lai Oanh Nhi hay tin gào khóc và mặc kệ cả mọi nguy hiểm chạy đến bên Tháo xin tha tội cho những tình nhân. Gặp Tào Tháo nàng cứ thực sự tâu bày mọi chuyện, làm cho Tào Tháo rất là ngạc nhiên. Trầm ngâm hồi lâu, Tháo nghĩ ra một giải pháp, đề xuất kiến nghị tha tội cho chàng thị vệ với Đk là Oanh Nhi phải chịu chết thay.

Không chút do dự, Oanh Nhi xin chịu, nàng còn yêu cầu một điều là hoãn ngày chết cho nàng hai tháng để nàng có đủ thì giờ huấn luyện những ca kỹ khác toàn bộ tài nghệ của tớ để trả ơn Tháo.

Lời thỉnh cầu của Oanh Nhi cũng khá được chấp thuận đồng ý. Nàng liền chọn bốn người xuất sắc nhất, ngày đêm tập dượt và sau cùng trong số bốn người, Oanh Nhi đã tạo hẳn ra một người khả dĩ thay thế cho mình hầu hạ Tào Tháo.

Làm xong trách nhiệm, Oanh Nhi thản nhiên đến thụ tội.

Tào Tháo cảm thấy bâng khuâng vì không ngờ việc tình ái lại thâm sâu đến thế. Tháo bèn cho gọi chàng thị vệ, nói lại mối tình nồng nhiệt của Oanh Nhi riêng với y. Tháo càng ngạc nhiên, khi thấy chính miệng tên thị vệ nói ra là y coi mối tình ấy chẳng khác nào chuyện qua đường. Nghe xong, Tào Tháo căm giận muốn chém phăng tên thị vệ cho rồi, nhưng nghĩ lại lời đã trót hứa với Oanh Nhi nên thôi. Đồng thời Tào Tháo cùng tỏ ý không thích bắt Oanh Nhi phải chết thay nữa. Sợ Oanh Nhi biết mình bị xử tệ bạc còn đau khổ gấp bội, Tháo bèn sai đuổi tên thị vệ về quê quán. Oanh Nhi biết, nàng quyết sống thác với tình, khẩn khoản xin Tháo cho đi theo tình nhân. Cực chẳng đã Tháo đành phải chịu. Lúc tiễn đưa Oanh Nhi, Tào Tháo sụt sùi khóc.

Ít ngày sau, Tháo nhận được tin Lai Oanh Nhi tự thắt cổ chết. Sự tích Lai Oanh Nhi trong cuộc sống Tào Tháo cho toàn bộ chúng ta biết:

a) Mặt sinh lý Tào Tháo rất tùy tiện và đã sửa soạn chu đáo để không đến nỗi phải bậy bạ với những người đàn bà nạ dòng trong họ nhà Trương Tú.

b) Mặt tình ái, tình cảm của Tào Tháo yên cầu đến một mức phong nhã không nhỏ.

Vậy mụ gái xề nhà Trương Tú không thể nào quyến rũ nổi Tháo phải quyết tử uy tín của Tháo đã tạo ra bằng bao nhiêu công phu, như vậy đắt quá.

9.3. Gian thần thoán đoạt?

Hậu thế gán cho Tào Tháo hai chữ “gian tặc”. Lý do là Tào Tháo đã thoán đoạt ngôi nhà Hán. Dùng danh từ gian tặc để chỉ Tào Tháo hoàn toàn là lý luận của bọn chính thống đương thời và đời sau. Chống lại sự vu oan đó, toàn bộ chúng ta chưa cần viện dẫn nhiều mặt khác mà hoàn toàn có thể đứng ngay trên lập trường chính thống cũng đủ biện bạch cho Tào Tháo.

Trước hết, suốt đời Tào Tháo nắm quyền thao túng quốc sự không hề có chuyện phế lập. Thế lực họ Tào không còn ai chối cãi là đã lấn át cả vua nhưng không phải là thoán đoạt, chính bới:

a) Sau Hán Vũ Đế, Hoắc Quang làm đại thần phụ chính thì nội bộ cơ quan ban ngành thường trực nhà Hán đã phân hóa giữa chính phủ nước nhà và Hoàng thất, đưa dẫn tới xung đột rồi.

b) Đời Tháo thì Hoàng thất nhà Hán đã mất kĩ năng và uy tín thống trị. Đương nhiên, Tháo phải tận lực xử dụng quyền lực tối cao để ổn định vương quốc.

Với Tào Tháo, yếu tố thoán đoạt vô nghĩa và ông không coi việc ấy là tham vọng hay mục tiêu của đời ông.

Dẹp xong ba mươi vạn quân Khăn vàng, đánh tan Viên Thiệu, bình Viên Thuật, đả bại Lưu Biểu, Tháo nói:

– “Giả thử vương quốc mà không còn tôi, thì còn biết bao kẻ xưng vương xưng đế.”

Suy ngẫm về lực lượng của tớ, Tháo thường nói:

– “Mọi người thấy binh sĩ tôi mạnh, lại nhận định rằng tôi là người không tin thiên mệnh nên ngờ tôi có ý lật nhà Hán. Nhưng tôi nghĩ trái hẳn, tôi há không biết rằng Tấn văn Công xưa mạnh nhường ấy mà vẫn một lòng một dạ với nhà Chu, Chu Vương chiếm hai phần ba thiên hạ mà vẫn phụng sự nhà Ân hay sao?”

Sách sử ghi chép rằng:

– Bình nhật, Tào Tháo thường hay kể chuyện tình cố quốc của Nhạc Nghị với nước Yên, với vẻ mặt rất là cung kính say sưa.

Tam quốc chí nhờ vào quan điểm chính thống, diễn tả hành vi thoán đoạt của Tào Tháo trên mấy yếu tố quan trọng như:

1) Vụ săn bắn ở Hứa Điền.

2) Ngôn ngữ trong bài hịch kể tội của Trần Lâm.

3) Vụ bức tử Đổng Phi.

Dưới đây toàn bộ chúng ta hãy bàn cãi từng yếu tố một.

Như toàn bộ chúng ta đã được biết, Tính từ lúc sau đời Hán Vũ Đế, cơ quan ban ngành thường trực đã có sự phân tách giữa chính phủ nước nhà và hoàng thất nhà Hán đã kém vế rồi, triều thần thuộc tập đoàn lớn lớn thống trị phe chính phủ nước nhà vẫn thường lấn áp quyền Hoàng đế, ngược lại Hoàng thất luôn luôn tìm cách Phục hồi quyền mình. Thậm chí để gây cánh, tin dùng cả bọn hoạn quan để mong tạo thế lực. Đến loạn kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ, mới đầu hoàng thất bị xâm phạm, sau cả chính phủ nước nhà cũng trở nên khinh miệt. Do đó, đứng trước tai ách chung, triều thần và hoàng thất tạm gác bỏ xung đột, link với nhau, vì sức không đủ nên phải cầu viện bên phía ngoài. Triều thần và vua chúa thỏa thuận hợp tác mời Tháo. Tháo được Triều thần chọn bởi hai lẽ:

1) Lực lượng Tào gần Kinh đô nhất.

2) Tào Tháo cũng dòng dõi môn phiệt, chung quyền lợi với bách quan trong triều. Cả hoàng thất lẫn triều thần mơ hồ tưởng rằng lực lượng của Tháo là một lực lượng của chức viên thuộc hạ. Họ lầm vô cùng, lầm vì trí lực của tớ không đạt tới mức Tháo. Tháo mạnh là vì ông biết gắn sát với lực lượng chính trị đang lên, chứ Tháo đâu có mạnh là vì dòng dõi môn phiệt, cho nên vì thế, việc về dẹp giặc của Tào Tháo đối tượng người dùng không riêng gì kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ; đối tượng người dùng còn kĩ năng đứng mũi chịu sào trong cơn đại dịch chuyển nữa. Lúc Lý Thôi Quách Dĩ thua chạy rồi triều thần mới ngã ngửa ra. Các quan muốn bảo vệ quyền lợi của tớ liền thổi phồng quyền thiêng liêng của nhà vua, để làm lập trường đấu tranh với Tào Tháo. Thổi phồng quyền thiêng liêng của nhà vua rồi, triều thần liền phát động tâm ý phẫn nộ, thương xót vua bị Tào Tháo ức chế như Tháo đã cả gan tế ngựa ra đứng trước mặt vua để nhận lời chúc mừng của Bách quan, khiến Quan Vân Trường giận, mày tầm dựng ngược mắt phượng giương to, cầm đao thúc ngựa định ra chém Tào Tháo.

Cuộc xung đột giữa triều thần với tập đoàn lớn lớn Tào Tháo phủ rộng rộng tự do ra từ TW ra những địa phương. Trịnh Thượng Thư gửi thư cho Viên Thiệu khuyên Thiệu cất quân đánh Tào. Thiệu nghe và sai Trần Lâm thảo hịch đánh Tào. Lời hịch mang những lời hầu hết như sau:

– Thường nghe rằng Minh chúa nhân nguy để chế biến, Trung thần lo nạn để lập công.

– Trước kia nhà Tần vua yếu, Triệu Cao lộng quyền hống hách trong triều, một tay tác oai, tác phúc.

– Tháo, nòi giống sót của Hoạn quan, gian xảo gian ác, thích gây ra sự biến loạn, vui mừng thấy sự tai vạ.

– Tháo vốn thân dê mà đội lốt hổ, nhưng lại thừa cơ mà bạo ác càn rỡ, tàn dân hại người lương thiện. Vì thế quan thái thú Cửu Giang là Biên Nhượng tài cán giỏi giang, thiên hạ biết tiếng, nói thẳng lòng ngay, không a xiểm ai, cũng trở nên nó hãm hại, đầu phải bêu, vợ con phải tàn sát. Từ đó sĩ phu ai cũng tức tối.

– Tháo dám rông rỡ làm càn, hiếp vua thiên đô, khinh nhờn nhà vua, nát phép loạn kỷ, ngồi giữ cả việc ba đài, chuyên chế triều chính, muốn thưởng ai thì thưởng, muốn giết ai thì giết, yêu ai thì người ấy sung sướng đến hơn cả năm ngành, ghét ai thì người ấy phải chết cả ba họ. Ai buôn chuyện phải trái thì trị tội công khai minh bạch, ai thầm vụng chê bai thì bị giết ngấm ngầm. vì thế trăm quan buộc miệng, đường xá đưa mắt nhìn nhau.

– Cho nên quan thái úy là Dương Bưu, từng giữ hai chức là Tư Không và Tư Đồ, nhất phẩm trong nước, Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn.

– Quan Nghi Lang là Triệu Ngạn, lời ngay nói thẳng hoàn toàn có thể nghe theo, vì thế Vua nghe nói động lòng, thay đổi nét mặt, tỏ ý khen thưởng. Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét, vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn lấp đường nói năng của mọi người, tự tiện bắt Triệu Ngạn giết đi, mà không nói cho Vua biết.

Rõ ràng tinh thần bài hịch hoàn toàn đại biểu cho quyền lợi nhóm triều thần, còn quyền lợi vua, quyền lợi dân thì chỉ là phụ, phần trang trí cho bản hiệu triệu thêm chính nghĩa thôi.

Bên ngoài Viên Thiệu hiệu triệu đánh Tào, bên trong những triều thần tụ họp thủ đoạn lật Tào Tháo. Vì tổ chức triển khai Tháo ngặt nghèo quá, nên hoạt động và sinh hoạt giải trí của đám triều thần chỉ thu hẹp vào việc giết Tháo. Sứ mệnh giết Tháo được phó thác cho danh y Cát Bình giả đến chữa bệnh, rồi tìm cách đầu độc, chuyện tính không xong, Cát Bình bị giết, bọn Vương tử Phục bị bắt cùng với cả nhà Đổng Thừa. Tháo sai đem ra chợ chém tất.

Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi đem gươm vào cung để giết Đổng quý Phi. Quý Phi là em gái của Đổng Thừa đã có mang 5 tháng. Hiến Đế xin cho Đổng Phi, nói: Đổng Phi đã có mang 5 tháng xin thừa tướng thương cho. Tháo không nghe. Đổng Phi khóc nói: Xin cho toàn vẹn thân thể mà chết, đừng để thể hiện. Tháo sai đem tấm lụa trắng đến trước mặt Đổng Phi. Đổng Phi cứ van khóc mãi, Tháo liền quát võ sĩ lôi Đổng Phi ra thắt cổ ở cửa Cung.

Tam Quốc chí diễn nghĩa viết:

Đời sau có thơ than Đổng Phi rằng:

Ân ái đền xuân cũng uổng thôi

Trứng rồng tan vỡ đáng thương ôi

Đường đường Đế chủ sao không cứu

Tầm tã nhìn suông nước mắt trôi

Bọn chính thống dùng mọi cách bi thiết hóa để gợi tình cảm chống Tào trên vụ án chính trị Đổng Phi. Thảm cảnh ngụy tạo ấy chỉ tốt cho văn nghệ chứ không thể dùng làm vị trí căn cứ để phán xét việc làm của một người dân có trách nhiệm với lịch sử. Bọn chính thống vì tôn phụng quyền lợi một tộc họ nên lấy thành viên mà đại biểu cho đại cục. Đổng Phi dù có bị giết tàn nhẫn hơn thế nữa, lịch sử cũng không vì vậy mà bớt những vụ tương tự.

Chính trị không phải là một việc làm êm ái, nhẹ nhàng như ta nhàn nhã hái bông hoa, vì chính trị vốn là mối xích míc xung đột ác liệt của xã hội. Làm chính trị là đối phó với những gì cường bạo, tham lam xảo quyệt. Nhà chính trị cỡ lớn phải ghi nhận ràng buộc vào sự an, nguy của thời thế, của đại cục. Giết Đổng Phi, Tào Tháo nói: “Nếu ta thất bại thì Quốc gia sẽ bước vào cục diện cực nguy hiểm”.

Một nhà chính trị nếu có đủ thế lực, đủ uy tín để nói câu này mà không thấy tự ngượng, mà không biến thành người khác chối bỏ thì thiết tưởng thân phận thành viên kiểu Đổng Phi chẳng là nghĩa lý gì hết. Không bắt giết bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa và Đổng Phi để bọn này liên lạc được với Viên Thiệu làm mưa làm gió thì xã hội sẽ ra sao? Bản thân Tháo sẽ ra sao?

Khi người ta, chẳng hiểu may hay là rủi ro không mong muốn, phải sống vào lúc nhiễu nhương, xã hội hỗn loạn mà trách nhiệm xây dựng, bình định lại rơi vào chính tay mình thì đương nhiên không thể tránh khỏi tình trạng hành vi tự do của kẻ này sẽ rình rập đe dọa đời sống của kẻ khác và tàn bạo phải nẩy sinh ra.

9.4. Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng

Trải qua thuở nào gian khá dài, toàn bộ văn hóa truyền thống Trung Quốc lấy dân tộc bản địa làm TT, dựa thế lực của kinh tế tài chính và quân sự chiến lược, đã phá vỡ những chướng ngại phong kiến, để đi sang thời đại thống nhất Trung Quốc. Ban đầu là nhà Tần, sau đến Lưu Bang giữ vai chính trên vũ đài hòa theo với những cuộc vận động của thành phần trí thức.

Thời kỳ trước Tam quốc và chính Tam quốc, công cuộc thống nhất chưa hoàn thành xong cho nên vì thế trách nhiệm thống nhất càng nặng thì toàn bộ xã hội Trung Quốc đã rơi vào tình trạng cực rối loạn. Tuy nhiên, bánh xe lịch sử cũng không vì thế mà ngừng khuynh hướng về thống nhất. Chỉ có khác một điểm là: Lẽ ra cơ quan ban ngành thường trực Trung ương lãnh đạo công cuộc thống nhất, nhưng vì Trung ương quá yếu nên việc thống nhất chuyển sang tay những thế lực lớn ở địa phương thôn tính những thế lực nhỏ để thống nhất từng mảnh trước, chờ đón cuộc tranh chấp ở đầu cuối tiến tới thống nhất toàn bộ.

Xã hội rối loạn của Tam Quốc hoàn toàn có thể khái quát bằng mấy điểm sau này:

a) Thối nát, băng hoại đến nỗi mất hết kĩ năng xử lý và xử lý mọi yếu tố khẩn cấp của Quốc gia và bảo vệ những Đk sinh hoạt thường nhật của dân chúng.

b) Tâm lý oán ghét chính sách mỗi ngày mỗi tăng dần, quần chúng to lớn hầu như vô vọng, họ sẵn sàng quyết tử để thay đổi số phận.

c) Mâu thuẫn, xung đột kịch liệt ngay trong nội bộ hàng ngũ thống trị, phe thống trị mất tin tưởng cả chính mình.

d) Xã hội khao khát một thế lực mới để dẹp loạn.

Tào Tháo sinh ra, lớn lên trong thời đại và xã hội kể trên. Tháo lại gánh trách nhiệm Quốc gia, để làm tròn trách nhiệm, tất yếu Tào Tháo phải là hiện thân của một chính trị gia đại tài.

Từ ngàn xưa, nhân danh tư tưởng nhân văn, nhân danh văn minh loài người, nhân danh niềm sung sướng hết thẩy đều yên cầu chính trị tuyệt đối phải là một hành vi đạo đức. Danh từ đạo đức ở đây khuyên tròn trong hàm nghĩa tuyệt đối, không bạo động, không giết người, không ngã xuống, không tù đày, không tranh chấp, không đàn áp. Thường thường nó biến ra tín điều mà những kể thống trị muốn nó tồn tại mãi có lợi cho họ. Đôi lúc, nó là cơ sở cho một lý thuyết ngoạn mục. Nhưng cũng không còn ai chối cãi được rằng: “Ở toàn bộ lịch sử, tranh chấp chính trị bao giờ cũng chỉ là những cuộc trận chiến tranh”. Phương pháp làm cho chính trị thành công xuất sắc với phương pháp dẫn trận chiến tranh đến thắng thắng lợi không khác gì nhau cả, nghĩa là phải có thế lực, có bản lĩnh để vận dụng vũ lực tiêu diệt quân địch, kẻ chống lại mình. Máu đổ nhiều hay ít, thanh toán nhau, tiêu diệt nhau tàn khốc hay là không tàn khốc còn tùy ở những Đk, tình hình lịch sử. Miễn là máu đổ người chết để thực thi một con phố sống và cống hiến cho hầu hết, cho dân tộc bản địa, cho tiến bộ, cho thái bình. Đạo đức biến hóa theo sự yên cầu của chính trị. Tại sao nói thế? Trả lời, toàn bộ chúng ta hãy đặt thêm một vướng mắc nữa. Đạo đức là gì? Người đời xưa giảng rằng: “Đạo đức thị ứng thời chi vật dã” (Đạo đức là một vật để ứng phó với thời thế), ví như mùa nóng mặc áo vải, mùa rét mặc áo lông cừu. Nếu nóng giãy mà mặc áo lông cừu, rét mướt mà mặc áo vải là trái ngược với thời. Đạo đức là nguồn gốc nguyên tắc của hành vi vậy.

Đời loạn có đạo đức của đời loạn, nghĩa là nhất nhất mọi hành vi phải có nguyên tắc mang hiệu lực hiện hành ứng phó với tình thế loạn. Cho nên Đạo đức của con người chính trị không là gì khác ngoài những hành vi đúng chuẩn.

Biết vận dụng nhân nghĩa để kiến thiết lực lượng.

Thâu thập được quyền uy to lớn để lôi kéo quần chúng, tiêu diệt những ác thế lực.

Đủ mưu thuật để lãnh đạo đấu tranh đến thắng lợi.

Tóm lại Đạo đức tức là phẩm chất chính trị vậy.

Sự nghiệp Tào Tháo là yếu tố nghiệp chính trị, vậy khi phê phán Tháo toàn bộ chúng ta không thể không đứng thoát khỏi con người chính trị được.

9.5. Trước hết Tào Tháo có nhân nghĩa để vận dụng không?

Tào Tháo Hàng trăm trong năm này vẫn bị tưởng tượng như một kẻ bất nhân bất nghĩa. Lý do của nó toàn bộ chúng ta đã nói ở trên, thiết tưởng chẳng cần nhắc lại dài dòng.

Lưu Bị thường nói: “Nay khác ta như nước với lửa là Tào Tháo. Tháo cấp ta khoan, Tháo bạo ta nhân, Tháo dối ta thật”. Như vậy để nêu rõ tính cách hung dữ, tàn nhẫn trá ngụy của Tào Tháo. Ở Tam Quốc chí diễn nghĩa dưới ngòi bút của nhà văn La Quán Trung, nghệ thuật và thẩm mỹ và làm đẹp vẽ nên con người tàn ác còn được biểu lộ huy hoàng hơn. Trong tiểu thuyết dù là việc lớn, hoặc những rõ ràng nhỏ, nơi nào Tào Tháo cũng tỏ cái tính cách “Thà ta phụ người chớ để người phụ ta”. Lưu Bị thì nơi nào thì cũng tỏ cái tác phong “Thà chết không làm điều phụ nghĩa”, tạo thành sự so sánh thật rõ rệt mạnh mẽ và tự tin, đến nỗi tên thường gọi Tào Tháo được sử dụng để xưng danh những kẻ tà đạo hùng xấu xa. Tình cảnh Tào Tháo giống in tình cảnh Machiavel, nhà văn chính trị Ý đại Lợi của thế kỉ thứ 16, bị người đương thời phỉ báng là: “tục tĩu khốn nạn”. Tên Machiavel trở thành tưởng tượng từ Machiavelique để chỉ những gì hung tàn, tồi tệ, giảo quyệt.

Ta đừng lẫn tiểu thuyết với lịch sử, ta cũng tránh việc lẫn lịch sử gian tạo với lịch sử chân thực. Đó là yếu tố cơ bản trước lúc bắt tay vào việc đi tìm tòi cái nhân nghĩa của Tào Tháo. Mạnh Tử nói: “Nghĩa là thao tác đúng mực” (nghĩa giả sự chi nghị dã).

Vậy muốn tìm hiểu việc nào có nghĩa hay là không, đương nhiên phải xét việc ấy cho thật thấu đáo đã. Không thể phê phán với thái độ tự cho đã nhìn thấy sự vật trước lúc có ánh sáng.

Xét cho thấu đáo ta sẽ thấy rằng: Ở vị thế và tình hình Tào Tháo, nhân nghĩa không thể là đem gạo phát chẩn như kiểu mấy triệu phú quy Phật, không thể như Sái Ung quỳ khóc thây Đổng Trác, không thể như Nễ Hành đánh trống chửi bậy, không thể như bọn người bất tài ôm Hiến Đế mà than thở v.v…

Phạm vi và cơ sở nhân nghĩa của Tào Tháo rộng to nhiều hơn thật nhiều. Đó là sinh mệnh của hàng trăm vạn người, sự bảo mật thông tin an ninh cho vương quốc, sự yên bình cho Xã hội sau bao tai biến tầy trời: Hoàng Cân, Đổng Trác, Lã Bố, Quách Dĩ, Lý Thôi. Đời sau vì bọn chính thống làm lạc hướng, đã quên mất cái nhân nghĩa to tát kia mà chỉ nghĩ đến mấy thành viên tầm thường: Triệu Ngạn, Dương Bưu, Đổng Thừa, Đổng Phi, Hiến Đế, dùng làm vị trí căn cứ kết tội Tào Tháo bất nhân, bất nghĩa.

Hình 64

9.6. Nhưng đáng kể nhất vẫn là con người chính trị của Tào Tháo

Jean Jacques Rousseau viết:

– Chớ lầm tưởng rằng những nhà hiền triết đã biết rõ con người, trái lại họ còn rất mù mờ là khác, vì họ thường xét đoán con người qua những thành kiến của tớ, nguy hơn thế nữa là không còn một hạng người nào lại lắm thành kiến bằng những nhà hiền triết.

Vào thực tiễn, những hiền triết bao giờ cũng thất bại chính bới toàn thế giới của tớ thuần những tư tưởng trừu tượng, những nguyên tắc thuần lý, những chân thiện mỹ tuyệt đối. Còn toàn thế giới loài người, sinh hoạt xã hội thì khác hoàn toàn.

Nước Cộng Hòa lý tưởng của Platon, Thành phố Thiên đường của Saint-Augustin và thiên quốc của Thomas Campenella đều chỉ là những giấc mộng, tương tự giấc mộng của vị lương y muốn tương lai y khoa sẽ vượt ngưỡng cửa Tử thần đến cõi bất diệt.

Thực tiễn là bản chất của chính trị.

Thực tiễn là tiềm năng của toàn bộ mọi hoạt động và sinh hoạt giải trí chính trị.

Ở chính trị chỉ có yếu tố lợi hại, thành công xuất sắc, thất bại, tồn tại và tiêu diệt. Muốn thành công xuất sắc, muốn tồn tại nên phải thủ đoạn mưu lược, biết tiến, biết thoái, phải có sức thao tác cần khổ, một nghị lực dồi dào.

Con người chính trị ví như vị kỹ sư sử dụng hết thẩy những gì thiết yếu hữu ích để đạt tới kết quả.

Thời đại Tam Quốc, một mình Tào Tháo là xứng danh đủ Đk thiết yếu của một con người chính trị. Bên cạnh Tào Thào là Gia Cát Lượng. Nhưng ở Khổng Minh người ta vẫn thấy vơi vơi, phảng phất tựa hồ mộng tưởng thống nhất cho nước Ý của Dante mà chưa tồn tại lý luận của Machiavel bổ túc, chủ nghĩa Xã hội ngoạn mục của Saint-Simon, Kropotkine mà chưa tồn tại tư tưởng khoa học và tư tưởng thực tiễn đấu tranh. Tóm lại con người chính trị của Khổng Minh phải đứng cạnh bên con người chính trị Tào Tháo thì tính chất của chính trị thời đại Tam Quốc mới hiển hiện, mới thấy rõ chỗ kỳ diệu mà Thánh Thán đã phê phán.

Xem Tam Quốc chí diễn nghĩa, nghiên cứu và phân tích Tam Quốc dù tùy từng tâm chất ta yêu hay ghét Tào Tháo, nhưng sâu kín trong tâm, toàn bộ chúng ta ai cũng thán phục Tào Tháo và công nhận Tào Tháo đã dạy được toàn bộ chúng ta nhiều điều hơn toàn bộ những nhân vật khác thuộc thời đại đó.

9.7. Tâm lý chính trị của Tào Tháo: hành vi trước hết

Tam Quốc chí diễn nghĩa kể:

– Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến hơn cả. Khi uống rượu được vài tuần, Doãn tự nhiên che mặt khóc hu hu.

Các quan giật mình hỏi rằng:

– Nay là ngày sinh nhật của quan Tư Đồ, sao Ngài lại khóc như vậy?

Doãn thưa rằng:

– Nay liệu có phải là ngày sinh nhật của tôi đâu. Vì có một việc muốn nói với những vị nhưng sợ Đổng Trác sinh nghi, cho nên vì thế mượn cớ thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Đức Cao Hoàng rất mất thời hạn rồi đánh Tần diệt Sở, bao nhiêu công phu mới nên cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Đổng Trác. Tôi khóc là vì thế.

Các quan nghe nói cũng đều khóc cả.

Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng:

– Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, có khóc chết được thằng Đổng Trác không?

Doãn ngoảnh lại xem ai, người ấy là Kiêu Kỵ Hiệu Úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng:

– Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, nay người không biết nghĩ báo quốc lại nhăn răng ra mà cười à?

Tháo nói:

– Tôi cười, có phải cười gì đâu? Cười là cười những Quan, không biết nghĩ kế gì mà trừ thằng Đổng Trác. Tháo này tuy không còn tài năng cán gì, nhưng xin lập tức chặt đầu thằng Trác, treo ở cửa chợ để tạ thiên hạ.

Doãn liền đứng lên hỏi rằng:

– Mạnh Đức có kế gì tài thế?

Tháo nói:

– Tôi lâu nay sở dĩ khuất thân nhờ Đổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó đã hơi tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan Tư Đồ có con dao Thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen này vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Đổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì.

Ở thời loạn, mọi người không thể cứ ngồi “ca cẩm” mà mong thay đổi tình thế. Toàn bộ trí thức Kinh Đô họp ở trong nhà Vương Doãn với thái độ than vãn nhù nhờ đã làm nổi trội ngôi sao 5 cánh chính trị Tào Tháo ngay từ lúc bấy giờ, lúc Tháo chưa tồn tại một tư bản chính trị nào.

Tào Tháo cười bọn đó, cũng như nhà văn Gorki cười bọn trí thức: “Bọn họ, số đông đều biết, đều giỏi mơ tưởng một đời sống niềm sung sướng cho quả đât thiên vạn năm, nhưng lại không người nào tự hỏi mình có dám đứng lên xây dựng nó?”

Tào Tháo là người cơ trí, lại dám hành vi, đương nhiên quyền lãnh đạo sau này phải lọt về tay Tháo. Mặc dầu những bước đầu thất bại. Giết không nổi Trác, Tháo phải bỏ trốn, rồi đi theo liên quân miền Đông lại gặp sự rụt rè của Viên Thiệu, Tháo dám một mình đuổi đánh quân Đổng Trác. Tuy thất bại, nhưng Tháo cũng mở mắt cho mọi người thấy rằng:

– Muốn cứu vãn một tình trạng thì không thể chỉ ngồi nhìn nhau buôn chuyện, than khóc, thề bồi, mà phải hành vi rỏ máu và mồ hôi. Nói suông để tự an ủi, tự làm với nỗi tức bực sẽ làm cho những người dân ta cứ nói suông mãi mãi. Cái cười của Tào Tháo muốn bảo cho bọn Vương Doãn, hãy quay trở lại tự vấn, tự xét cái thái độ ăn nhiều, uống nhiều và nói nhiều.

9.8. Không mập mờ

Một chính trị gia hay một tập đoàn lớn lớn chính trị phải kiến thiết lập trường rõ rệt. Nhà văn Chekow đã miêu tả sự thất bại qua nhân vật Gusev “lúc nào thì cũng trở nên dầy vò bởi ý tưởng mờ ảo mà hắn ta không định rõ là hắn muốn gì?”

Ở Tào Tháo, ngay từ khi khởi đầu hoạt động và sinh hoạt giải trí, Tào Tháo đã đặt mình vào một trong những vị trí nhất định không chân nọ chân kia, chờ đón như nhiều kẻ khác.

Việc mưu sát Đổng Trác hỏng, mặc dầu đã biện hộ cho khỏi bị nghi ngờ, nhưng chẳng dùng dằng, Tháo ra cửa mượn ngựa trốn thẳng một mạch. Trên yếu tố là trốn để tránh họa cho thân, nhưng trên tâm ý Tháo quyết trái chiều với Trác. Thoát rồi, Tháo liền thảo hịch đánh Trác, tờ hịch của Tháo được những trấn hưởng ứng, chư hầu quy tụ. Trác thua chạy về phía Tây. Viên Thiệu không đuổi, có ý muốn thỏa hiệp với Trác. Tháo nhất định phá việc đó nên mang một vạn quân cùng những bộ tướng suốt ngày đuổi theo đánh Đổng Trác.

Bình xong giặc Khăn Vàng vùng Từ, Duyện, Tháo được những triều thần gọi về dẹp loạn Lý Thôi-Quách Dĩ. Chủ kiến đã định, tới thành đô, lập tức Tháo quét sạch luôn cả bọn danh sĩ lỗi thời cùng toàn bộ tập đoàn lớn lớn thống trị cũ.

Với Tháo, trên phương diện thủ đoạn cơ mưu chính trị hoàn toàn có thể mang những nét quanh co uẩn khúc, nhưng trên phương diện lập trường thì chỉ có một vạch thẳng. Bởi lẽ này mà những người dân theo Tào Tháo tin ông ta hoàn toàn. Bởi đường lối chính trị minh bạch mà Tào Tháo tạo nên một uy thế chính trị vững chãi.

9.9. Cứng rắn

Tào Tháo thường nói: “Thật là khôi hài nếu con người ta cũng như cây đàn, hễ hơi đụng tới thì nó kêu rên lên”. Chính trị với Tháo yên cầu sự tiêu diệt mọi tình cảm lòng thòng vô ích. Thương vay khóc mướn sẽ làm sét rỉ tâm não nhà chính trị.

Đúng thế, kẻ nhạy cảm thường vẫn là người tự phản bội chính mình, cho nên vì thế nhà văn Andreev trong tập truyện ‘Bẩy kẻ bị chết treo” đã ca tụng thái độ nhất quyết của một nhà cách mạng qua nhân vật “Kẻ tử tù”:

– Ôi! Nếu mặt con người mà khóa được như cánh cửa lao thất, thì mặt người tù ấy tôi thấy bưng kín, lạnh lùng và bên phía ngoài còn cả chiếc khóa to lớn.

9.10. Bàn về công cuộc tranh đoạt cơ quan ban ngành thường trực của Tào Tháo

Như ta đã biết, xã hội Trung Quốc đương thời Tào Tháo mang nhiều mối xung đột quyết liệt:

– Xung đột nội bộ cơ quan ban ngành thường trực TW.

– Xung đột Một trong những cty ban ngành thường trực địa phương với cơ quan ban ngành thường trực Trung ương,

– Xung đột Một trong những lực lượng địa phương với nhau.

– Xung đột giữa hai cấp lãnh đạo cũ và giai cấp lãnh đạo đang lên, hay xung đột giữa thành phần trí thức dân dã và thành phần trí thức danh quyền lực tối cao tộc.

– Xung đột giữa quần chúng to lớn với chính sách lại trị đang đi xuống của cơ quan ban ngành thường trực triều Hán.

– Xung đột giữa khuynh hướng thống nhất và khuynh hướng chia cắt phong kiến.

Tóm lại, Trung Quốc lúc đó đang đi vào cơn khủng hoảng rủi ro không mong muốn cục bộ lớn trên chính trị, văn hóa truyền thống và sinh hoạt, nói chung là khủng hoảng rủi ro không mong muốn cục bộ của Trật tự và Tiến bộ (l’ordre et le progrès). Một đằng trật tự cũ đang ra sức phá hoại tiến bộ. Đằng khác, tiến bộ đang ra sức kiến thiết lực lượng mới để nhoi lên.

Trật tự và Tiến bộ là hai yếu tố cơ bản cho việc sống sót của một chính sách. Muốn xử lý và xử lý những xung đột trên thì yếu tố hầu hết là yếu tố cơ quan ban ngành thường trực, chính bới quyền lực tối cao chính trị là chiếc chìa khóa thiết yếu để khai thông những lối ngõ bị lấp bít. Quan niệm và học thuyết về cơ quan ban ngành thường trực cũng là ý niệm và học thuyết của cuộc diễn tiến lịch sử. Học thuyết chính trị Đông Phương coi trọng quyền bính ra làm sao?

Khổng Tử nói: “Không búa rìu làm thế nào đốn cây?”

Tuân Tử nói: “Tạo Phụ là người tài cưỡi xe, nay không còn xe có ngựa thì lấy gì để tỏ cái tài năng của tớ. Hậu Nghệ giỏi bắn, nay không còn cung mang tên thì lấy gì để tỏ cái giỏi của tớ”.

Quỷ Cốc Tử nói: “Công việc muốn tốt là phải khắc chế được người chứ không để người khắc chế ta. Muốn khắc chế người, tất phải nắm được quyền, cho nên vì thế mới có câu đại trượng phu lấy quyền để mà sai khiến chúng nhân vậy”.

Quyền bính riêng với chính trị thiết yếu như chiếc búa với những người tiều phu, hay nói khác đi, chính trị và quyền bính chẳng khác chi con Lang con Bối sống nhờ vào nhau, con này rời ra con kia chết, con kia rời ra con này chết, chính trị và quyền bính mang tính chất chất chất cộng sinh (Symbiose).

– Quyền bính là gì?

Theo cổ nhân: “Quyền thị chúng lực chi yếu, cương chi cương, y chi lãnh”, nghĩa là quyền ví như đầu giềng của chiếc lưới, cổ của chiếc áo, chủ chốt của mọi lực lượng. Khi ta cầm vào cổ áo, ta sẽ mang chiếc áo thuận tiện và đơn thuần và giản dị, ta cầm được đầu giềng của lưới, ta sẽ điều khiển và tinh chỉnh được chiếc lưới thuận tiện và đơn thuần và giản dị, nhẹ nhàng.

– Làm thế nào để sở hữu quyền?

– Đương nhiên phải tranh thủ để sở hữu cơ quan ban ngành thường trực.

– Tào Tháo đã tranh đoạt cơ quan ban ngành thường trực ra sao? Tư tưởng hậu thế sau khi bị chính thống hóa cũng như bị ảnh hưởng Tam Quốc chí diễn nghĩa đã khinh ghét Tào Tháo đều chú trọng và vị trí căn cứ vào cuộc tranh đoạt cơ quan ban ngành thường trực của Tào Tháo. Đó là toàn bộ yếu tố mà toàn bộ chúng ta sẽ bàn tới những dòng dưới đây.

– Tranh thủ cơ quan ban ngành thường trực tự cổ xưa đến nay, từ Đông sang Tây đều phải có hai phương pháp: “phương pháp bạo động và phương pháp không bạo động”. Xét trong lịch sử thì phương pháp bạo động hay phương pháp không bạo động đều mang nhiều hiện tượng kỳ lạ rất khác nhau. Tỉ dụ: Nhượng quyền như Nghiêu Thuấn, thoán đoạt như Hồ Quý Ly, mưu sát như vụ Brutus, thông qua nghị hội như những cuộc giải tán nội những ở những nước Tây phương ngày này, dùng trận chiến tranh xâm lược, trận chiến tranh giải phóng v.v… Những hiện tượng kỳ lạ rất khác nhau ấy phải tùy từng những Đk, tình hình và tính chất của đấu tranh cao hay thấp của lịch sử mà phát hiện.

Cổ học Trung Quốc ý niệm về cả hai phương pháp bạo động và không bạo động như sau:

a) Dùng đức.

b) Dùng Công.

c) Dùng Mưu.

d) Dùng Vũ.

Nhưng cổ nhân thường trọng lối khôn khéo hòa bình dành cơ quan ban ngành thường trực hơn là dùng lối bạo tàn để cưỡng đoạt.

– Dùng Đức là thế nào?

– Như vụ ông vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn vì thấy Thuấn được dân yêu chuộng.

– Dùng Công là thế nào?

– Như vua Vũ trị thủy để quy tụ lòng ngưỡng mộ của muôn dân.

– Dùng Mưu là thế nào?

– Như vua Thang vượt mặt quân Kiệt, dùng Nữ Hoa và Khúc Nghịch làm tay sai để mê hoặc vua Kiệt mà che đậy mưu của tớ.

– Dùng Vũ thì thế nào?

– Như Hán cao Tổ và Hạng Võ phát động trận chiến tranh chống Tần.

Chữ Vũ ở đây nên hiểu theo cái nghĩa bạo động ngược lại với bất bạo động. Còn nếu hiểu rộng to nhiều hơn thì trong Vũ cũng phải có đủ cả Đức, Công, Mưu thì mới quyết thắng được. Hơn nữa xét cho cùng, mọi nút chuyển trọng đại của lịch sử chưa hề có lần nào được xử lý và xử lý mà không xẩy ra bạo động, như Lénine đã viết:

La violence est l’accoucheuse de toute vieille societe grosse d’une societe nouvelle, l’instrument à l’aide duquel le mouvement social se fait place et brise les formes politiques mortes et figées.

(Bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới, là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết.)

Bạo động hay là không bạo động đều tùy thuộc những Đk, tình hình, tính chất lịch sử, vì vậy ta không thể kết tội bạo động cũng như nhất định không bạo động. Không bạo động từ bao giờ đến giờ vẫn chỉ là một ước mơ chứ chưa thành một quy luật. Chẳng phải bất kể thời thế nào thì cũng khá được cho phép nhà chính trị dùng Đức, dùng Công.

Phê phán Tào Tháo, có người viết:

– “Sinh hoạt chính trị của Tào Tháo gồm trước sau hơn bốn mươi năm thì đã quá 30 năm Tào Tháo ngụp lặn trong trận chiến tranh”.

Lời phê phán trên đây cho toàn bộ chúng ta thấy cuộc tranh đoạt cơ quan ban ngành thường trực của Tào Tháo là cuộc tranh đoạt bằng vũ lực, lấy trận chiến tranh xử lý và xử lý yếu tố.

Trở ngược lại từ loạn Khăn Vàng, Hoạn quan, Ngoại thích đến Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ ta thấy gì?

Hết thẩy chỉ là những thủ đoạn tranh ngôi, đoạt vị của những thế lực chống đối nhau của cùng một “gia thuộc” của trật tự cũ. Do đó ta không thể gọi đấy là những cuộc đấu tranh giành cơ quan ban ngành thường trực được, vì bản chất những tranh giành ấy không đặt trên nền tảng cơ quan ban ngành thường trực. Bởi thế nên vì thế ta mới thấy những hiện tượng kỳ lạ rất khôi hài mà Tam Quốc Chí diễn nghĩa thuật lại như:

Hà Hậu nói:

– “Chúng mày đừng lo, ta sẽ bảo lãnh cho”. Bèn giáng chỉ triệu Hà Tiến vào cung khẽ nói rằng: “Anh em ta hàn vi từ thuở nhỏ, nếu không còn bọn Trương Nhượng sao có phú quý ngày này? Nay thằng Kiển Thạc bất nhân đã biết thành giết rồi, sao anh còn tin lời người ta nói mà toan giết cả bọn hoạn quan?”

Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê thấy phe Đổng thái Hậu thất bại, bèn đem vàng ngọc đút lót em trai Hà Tiến là Hà Miên và mẹ Tiến là Vũ dương Quân nhờ vào nói khéo với Hà thái Hậu che chở cho. Bởi vậy mười tên Thường thị lại được tin dùng.

………………………………………………

Trác hỏi Ngu Phu rằng:

Ai xui mày làm phản?

Phu trợn mắt thét mắng:

– Mày không phải là vua tao, tao không phải là tôi mày, sao gọi là phản được. Tội mày đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết mày. Tao tiếc rằng không xé nhỏ được xác mày ra để tạ thiên hạ.

Trác tức lắm, sai đem Ngu Phu ra mổ. Phu cứ mắng chửi Đổng Trác đến lúc chết.

………………………………………….. ………………………………………….. ……………

Hiến Đế khóc nói:

– Trẫm bị hai thằng giặc ấy khinh nhờn đã lâu. Nếu giết được thì may lắm.

Bưu tâu rằng: “Tôi có một mẹo, trước làm cho hai đứa tự tàn hại lẫn nhau rồi sau mới vời Tào Tháo đem binh vào giết, quét sạch lũ giặc để yên triều đình”.

Hiến Đế hỏi: “Kế ấy là kế gì?”

Bưu tâu: “Tôi nghe vợ Quách Dĩ rất hay ghen, sai người đi lại với vợ nó, dùng kế phản gián, hai thằng giặc tất giết lẫn nhau”.

Vua liền hạ chiếu phong Lý Thôi làm Đại tư Mã. Thôi mừng nói rằng: “Phúc này thật là thần thánh giáng cho ta. Lạy thánh vạn lạy, có cầu cúng Ngài cũng luôn có thể có hơn”.

Lý Nhạc và Hàn Tiêm lại sở hữu hơn hai trăm nô lệ bộ hạ, nào thầy cúng nào thầy thuốc. Hai đứa tâu cho làm Hiệu úy Ngự sử cả. Khắc ấn không kịp, lấy dùi vạch gỗ ra làm ấn chẳng ra thể thống gì cả nữa.

Nền tảng cơ quan ban ngành thường trực là gì?

Nhiều người vẫn ý niệm cơ quan ban ngành thường trực qua những yếu tố “nổi” mà sơ sót những yếu tố “chìm”, ví như nhìn thấy ở cơ quan ban ngành thường trực những yếu tố: vũ lực, tổ chức triển khai cai trị, vị trí căn cứ địa, tổ chức triển khai kỹ thuật, tiền bạc mà không nhìn thấy sự tiến bộ của xã hội, uy thế chính trị, uy thế xã hội và tư tưởng nhân sinh. Nhà triết học Aristote viết: “Người là một động vật hoang dã chính trị”. Sở dĩ người là một động vật hoang dã chính trị là vì người biết quây quần kết tụ thành từng tập đoàn lớn lớn, những tập đoàn lớn lớn lại kết tụ lại thành xã hội và cứ tăng trưởng to lớn không ngừng nghỉ.

Xã hội càng to lớn thì tính cách kết tụ càng phức tạp, trong số đó những tập đoàn lớn lớn kết tụ qua kinh tế tài chính, qua học thuật, qua tôn giáo v.v…

Các tập đoàn lớn lớn ấy do sự thiết yếu của tiến bộ, tăng trưởng và sống sót nên có hai bộ mặt sinh hoạt trái ngược hẳn: Một mặt phối hợp sống chung và một mặt đấu tranh lẫn nhau. Hai bộ mặt sống chung và đấu tranh nên phải có một sự kiểm soát và điều chỉnh, nếu không xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, cướp bóc, hà hiếp. Nhu yếu kiểm soát và điều chỉnh sản xuất ra cơ quan ban ngành thường trực. Như vậy, trách nhiệm số 1 của cơ quan ban ngành thường trực là phải kiến lập được trật tự vững chãi. Muốn kiến lập được trật tự vững chãi, cơ quan ban ngành thường trực cần nắm đủ yếu tố: vũ lực, tổ chức triển khai cai trị, vị trí căn cứ địa, tổ chức triển khai kỹ thuật, tiền bạc v.v… Những yếu tố này kể làm những phương tiện đi lại để thực thi trật tự. Nhưng ta không được quên rằng xã hội luôn luôn chuyển hình, tiến bộ, lẽ đương nhiên cơ quan ban ngành thường trực cũng phải mang trách nhiệm thỏa mãn nhu cầu nhu yếu tiến bộ của xã hội, nếu cơ quan ban ngành thường trực và trật tự đi thụt lùi so với nhu yếu tiến bộ, chẳng chóng thì chày cơ quan ban ngành thường trực và trật tự sẽ bị tiến bộ quật ngã để rồi sản xuất một trật tự mới hơn, tiến bộ hơn. Cho nên muốn thỏa mãn nhu cầu nhu yếu tiến bộ của xã hội, cơ quan ban ngành thường trực tự nó có sẵn sàng uy thế chính trị, uy thế xã hội, uy thế tư tưởng, nghĩa là lãnh đạo được sự chuyển hình tiến bộ của xã hội trên những mặt. Vậy ta hoàn toàn có thể nói rằng gọn lại rằng: Chính quyền mang hai trách nhiệm:

1) Giữ gìn trật tự

2) Thúc đẩy tiến bộ

Ngày nào mà trật tự và tiến bộ không song song được với nhau nữa, phát sinh khủng hoảng rủi ro không mong muốn cục bộ, ngày đó xã hội rơi vào tình trạng loạn, tranh chấp.

Trung Quốc đến cuối Đông Hán thì xã hội khởi đầu thuở nào kỳ phân loạn dài; Trật tự, tiến bộ, kinh tế tài chính, tư tưởng v.v… hoàn toàn bị xáo trộn.

Vương quyền triệu tập nay trở thành một khối mạng lưới hệ thống thế lực cho ít người. Chính quyền bị lũng đoạn, tiền bạc nhân lực bị xem là phương tiện đi lại xa xỉ, dâm dật. Liêm sỉ Từ này mà tiêu tán. Trong bức thư Lý Lăng gửi Tô Vũ, sách thế truyền có chép: Bọn quan lại phá hoại được phong làm Vạn hộ Hầu, bọn thân thích tham nịnh được phong làm Lang tể miếu.

Lúc thế lực bọn hoạn quan, ngoại thích tăng trưởng, đạo đức càng đi xuống.

Những câu đồng dao như:

Trực như huyền, tử đạo biên

Khúc như câu, phản phong hầu

(Thẳng thắn chết đường, luồn cúi tước vị)

Cử tú tài, bất tri thư

Cử hiếu liêm, phụ biệt cư

Hàn tố thanh bạch, trọc như nê.

Cao đệ lương tướng, khiếp như kê

(Tú tài không biết chữ, hiếu liêm đánh đuổi bố, nghèo nàn thanh bạch bị khinh miệt, quan cao tướng giỏi nhát như gà). Đạo đức sa đọa không riêng gì có ở trên nghành kinh tế tài chính. Nguy hại hơn, nó còn hoành hành cả trên lãnh vực giáo dục, giảng học, làm cho mọi giá trị càng điên hòn đảo. Đó mới kể về phương diện đạo đức, còn phương diện sinh sống thế nào?

Đi đánh giặc, Tào Tháo có hai câu thơ ngũ ngôn:

Thiên lý vô kê minh

Sinh dân bách di nhất.

(Hàng vạn dặm không thấy tiếng gà gáy, dân cư lèo tèo thưa thớt)

Vương Sán cũng luôn có thể có hai câu:

Xuất môn vô sở kiến.

Bạch cốt tễ bình nguyên.

(Ra cửa chẳng trông thấy gì ngoài xương trắng ngổn ngang ngoài đồng) để tả thảm cảnh bấy giờ.

Bởi tại đâu mà nên nông nỗi?

Kể từ lúc Hán triều suy nhược, kinh qua ngoại thích chuyên chính, xã hội chịu nhiều tai ương, nào: nước lụt, hạn hán, đến loạn Tây Khương, đến hoạn quan loạn triều chính. Bọn hào môn ngoại thích, hoạn quan và bọn địa chủ link, trong lúc giai tầng trung sản bị phá sản. Giầu nghèo mỗi ngày mỗi xa cách, hận thù, số nô tỳ mỗi ngày mỗi ngày càng tăng. Phản loạn khởi đầu. Hán triều mấy lần ban chiếu, có những đoạn nhận tội như: “Bây giờ quý thích cận thần xa xỉ phóng túng vô độ” hay “người sống mất hết tư nghiệp, người chết phơi thây giữa đường”. Mấy chiếu thư xuống làm thế nào biến hóa được cục diện thối nát, cho nên vì thế xã hội ngày càng ác họa. Sử gia Trọng Trường Thống ghi nhận:

– Nhà bọn hào có hàng trăm nóc, ruộng tốt khắp nơi, nô tỳ thì ngàn người, xe ngựa chạy bốn phương, thành phầm & hàng hóa châu báu vô số, thê thiếp tính cả trăm. Dưới bàn tay tham ô của bọn hào môn, nguòi dân cày đói khổ, thành phần trí thức cơ cực. Trọng Trường Thống kết luận với câu: “Tám phương đê vỡ, xấp xỉ rữa nát như cá thối” để nói cái kết quả chính trị chuyên chính của bọn hoạn quan, ngoại thích. Xã hội hỗn loạn ấy, tất yếu khắp thiên hạ mong mỏi một cơ quan ban ngành thường trực với kĩ năng tái lập trật tự mà không ngăn ngừa tiến bộ. Xã hội Đông Hán chẳng khác nào chuồng ngựa Augias, kẻ nào dọn nó nên phải có sức mạnh mẽ và tự tin của Hercule. Người xung phong cáng đáng việc làm là Tào Tháo cùng tập đoàn lớn lớn của ông, rồi đến Tôn Sách, Tôn Quyền bên Đông Ngô và sau nữa đến Khổng Minh, Tưởng Uyển, Khương Duy bên Tây Thục.

Vấn đề chiếm đoạt cơ quan ban ngành thường trực có hai điều hầu hết: Chiếm và giữ.

Hai điều hầu hết ấy, yên cầu lực lượng chính trị hai kĩ năng:

a) Khả năng tác chiến chiếm đoạt

b) Khả năng điều khiển và tinh chỉnh trật tự trên một tình hình mới, hay nói khác đi là củng cố cơ quan ban ngành thường trực sau cơn đại dịch chuyển.

Ta hãy nói tới kĩ năng “Chiếm và tăng trưởng cơ quan ban ngành thường trực” của Tào Tháo. Trước khi đem quân về Kinh đô, sinh hoạt chính trị của Tào Tháo thiên về khuynh hướng thủ đoạn đầy tính chất phiêu lưu. Tam Quốc Chí diễn nghĩa cho toàn bộ chúng ta biết những việc:

1) Đứng về phe Hà Tiến chống thế lực hoạn quan. Hai lần bầy mưu can gián Hà Tiến đều bị Tiến mắng đuổi.

2) Liên kết với đám triều thần định hành thích Đổng Trác.

3) Dựa vào thế lực Viên Thiệu, xây dựng liên quân miền Đông đánh lực lượng Tây Lương.

Tất cả những hoạt động và sinh hoạt giải trí sinh hoạt phiêu lưu trên chỉ đem lại cho Tào Tháo sự thất bại ê chề, sự nhục nhã. Tháo tỉnh ngộ và quyết tâm đi vào con phố lớn, không đuổi theo những thủ đoạn vặt nữa. Tháo đã hiểu rằng: Lịch sử không phải là kết quả của may rủi, làm lịch sử, làm chính trị nếu không nghiên cứu và phân tích để nhận thức đúng bản chất xã hội, bản chất xung đột thì suốt đời sống bám, suốt đời không nhảy vào vị thế lãnh đạo được. Chính quyền không phải là ngôi thứ thành viên. Chính quyền là tiềm năng cao nhất cho toàn bộ mọi hoạt động và sinh hoạt giải trí chuyển vận lịch sử. Muốn có cơ quan ban ngành thường trực thì phải có kế hoạch, phương pháp tranh thủ đúng, chính bới cơ quan ban ngành thường trực là kết quả đường lối chính trị đúng đắn, đúng chuẩn. Quyền lực chính trị không phải là một vật mà trong một lúc, đêm này qua sáng sau là có khá đầy đủ cả. Nó tiến từ sơ khởi đến kết cục, từ không đến có, từ vai phụ tiến lên vai chính, từ cục bộ tiến đến toàn bộ. Nghĩa là nó phải trải qua thuở nào kỳ sửa soạn, xây dựng bảo vệ, nuôi dưỡng, trưởng thành.

Cơ hội thứ nhất đến với Tào Tháo trên con phố lớn là việc Chu Tuấn tiến cử Tào Tháo (lúc ấy đang làm Thái thú Đông Quận) với Lý Thôi, Quách Dĩ cho đi dẹp giặc Khăn Vàng ở vùng Thanh Châu, Tháo đã biết biến thời cơ đó thành một lợi thế, tạo thành cái vốn chính to tát cho mình. Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể như sau:

“Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm hôm ấy thảo tờ chiếu cho những người dân mang ra Đông Quận, sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc. Tháo vâng chiếu chỉ họp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương. Pháo Tín đi vào đất giặc, bị giặc giết chết. Còn Tào Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc quy hàng tới vài vạn người. Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu, giặc hàng đến đấy. Mới được hơn một trăm ngày, chiêu an được hơn bốn mươi vạn quân hàng. Vừa đàn ông, đàn bà kéo lại theo Tháo hơn một triệu người. Tháo tuyển lấy những quân tinh nhuệ, đặt riêng một cánh quân gọi là binh Thanh Châu, còn bao nhiêu đuổi về cho làm ruộng. Từ đó uy danh Tào Tháo mỗi ngày mỗi lừng lẫy. Tiếng đồn về đến tận kinh, triều đình phong cho Tháo làm Chấn Đông tướng quân.”

Nhưng con phố lớn mà Tào Tháo theo đuổi đâu phải là cái chức Chấn Đông tướng quân. Chẳng qua chức đó chỉ là cái bàn đạp cho Tào Tháo tiến quân về kinh đô Lạc Dương. Chủ ý Tào Tháo đã định, tuy nhiên muốn thực thi việc nắm trọn cơ quan ban ngành thường trực thì việc thiết yếu là làm thế nào kiến thiết nhanh gọn một tổ chức triển khai lãnh đạo thay thế cho toàn bộ tổ chức triển khai lãnh đạo cũ. Kinh nghiệm Đổng Trác, Vương Doãn, Lý Thôi, Quách Dĩ còn sờ sờ ra đấy. Cho nên sau khi nhận chức Chấn Đông tướng quân, Tháo liền tiến hành gấp việc chiêu mộ những người dân tài năng trong thiên hạ, quy tụ đại bộ phận thành phần trí thức với phương châm: “Hiền tại vị, năng tại chức”, tuy nhiên chiếu theo nhu yếu thực tiễn nên Đk mà Tháo chú trọng là tài năng.

– “Tào Tháo ở Duyệt Châu chiêu mộ thu dùng những người dân hiền sĩ. Ở làng Dĩnh Ầm châu Dĩnh, có một nhà hai chú cháu cùng đi theo Tháo. Người chú họ Tuân tên Úc, tên chữ là Văn Nhược, nguyên là con Tuân Côn. Úc trước đã theo Viên Thiệu, nay bỏ Thiệu theo Tháo. Tháo cùng Úc rỉ tai xong rồi nói rằng:” Người nầy là Tử Phòng của ta đây”, rồi cho làm Hành quân Tư Mã.

Người cháu tên là Tuân Du, tên chữ là Công Đạt, trước đã làm Hoàng môn Thị Lang. Sau bỏ quan về làng, nay theo chú sang với Tào Tháo, (được?) cho làm Hành Quân Giáo thụ.

Tuân Du lại nói với Tào Tháo rằng:

– “Tôi nghe ở Duyệt châu có một người hiền sĩ vốn ở Đông An, họ Trình tên Dục, tên chữ Trọng Đức, nhưng không biết giờ đây ở đâu. Người ấy Chúa công nên dùng.

Tháo nói: “Tôi biết tiếng Trình Dục đã lâu”

Nói rồi sai ngay người về tận Đông An để hỏi cho được, thấy họ nói rằng: “Trình Dục đang ở trong núi đọc sách, Tháo cho mời ra. Trình Dục đến bái kiến, Tháo mừng lắm.

Dục lại bảo với Tuân Úc rằng:

– “Tôi là người quê kệch học tập không được mấy, không xứng danh với việc tiến cử của ông. Nay tôi biết có một người cùng làng với ông tên là Quách Gia, tên chữ là Phụng Hiếu, thực là hiền sĩ đời nay, sao ông không triệu ra”.

Úc sực nhớ đến nói rằng: “Suýt nữa tôi quên người ấy”.

Úc rỉ tai ngay với Tào Tháo. Tháo cho mời Quách Gia. Gia đến Duyệt châu bàn việc thiên hạ với Tào Tháo, rồi lại tiến Tháo một người nữa dòng dõi vua Quang Vũ, người ở Thành Đức họ Lưu tên Hoa chữ là Tử Dương. Tháo cho mời Hoa đến, Hoa lại tiến cử hai người nữa, một người ở Sương ấp họ Mãn tên Sủng, tên chữ là Bá Ninh, người nữa ở Vũ Thành họ Lã tên Kiền, tên chữ là Tử Khác. Tháo cũng biết tiếng hai người ấy, cho nên vì thế đặt ngay cho làm Trung Tùng Quân Sư.

Được ít bữa lại sở hữu một tướng nữa đem vài trăm quân mã lại xin theo với Tào Tháo, người ở Cự bình tên là Vu Cấm, tên chữ là Văn Tắc. Tháo thấy người ấy cung mã giỏi, võ nghệ hơn người, cho làm Điểm quân Tư Mã.

Một hôm Hạ Hầu Đôn lại dắt một người cực lớn lại trình làng Tào Tháo. Tháo hỏi ai, Đôn thưa rằng:

– “Người này ở Trần Lưu, họ Điển tên Vi. Sức khỏe không còn ai địch nổi. Trước Vi đã theo Trương Mạc, sau nhân có việc bất hòa với khá đầy đủ tớ Mạc, giết vài người rồi trốn vào núi ở. Tôi đi săn gặp Điển Vi đang đuổi hổ nhảy qua suối, nay tôi đem về đây dâng chúa công.

Tháo nói: Ta xem người này tướng mạo khôi ngô, tất người thực khỏe.

Đôn lại nói: “Điển Vi từng báo thù cho bạn, giết người xách đầu ra chợ, hàng mấy trăm người không đủ can đảm đến gần. Y sử dụng hai ngọn kích sắt, nặng tám mươi cân cắp ngồi trên ngựa, vung múa nhẹ như bay.

Tào Tháo lập tức sai Điển Vi ra thử kích.

Vi cắp đôi kích lên ngựa đi lại nhẹ nhàng như bay.

Bỗng bấy giờ có cơn gió to, lá cờ lớn trồng dưới trướng lung lay sắp đổ. Quân sĩ xúm xít lại ôm giữ không nổi.

Điển Vi thấy vậy, từ trên ngựa nhẩy xuống quát to một tiếng đuổi quân sĩ lui ra, rồi một tay nắm chắc lấy, cột cờ đứng im phăng phắc giữa luồng gió.

Tháo thấy thế mừng lắm nói rằng:

Người này thực là Ác Lai rất mất thời hạn rồi đây.

Liền cho làm trướng tiền đô úy, cởi ngay áo đang mặc, thêm một con ngựa rất tốt và một bộ yên chạm đem cho Điển Vi.

Từ bấy giờ bộ hạ Tào Tháo, văn có người tài, vũ có tướng giỏi, uy danh lừng lẫy cả Sơn Đông.

Hàng mấy ngàn năm trước đó, Quản Trọng nói: Anh hùng giả, quốc chi cán, thứ dân giả, quốc chi bản. Đắc kỳ cán, thâu kỳ bản, tắc chính hành nhi vô oán hĩ (những anh hùng là cốt cán của một nước, dân chúng là gốc rễ của một nước. Dùng được cốt cán của một nước, thu phục được gốc rễ thì việc thi hành chính vì sự không biến thành oán hận).

Ngày nay chính trị gia Tây Phương cũng nói: Ce qu’un véritable chef doit faire ce sont non des actes, mais des hommes, des hommes qui le prolongent dans l’espace et dans le temps (lãnh tụ tài giỏi không phải chỉ biết hành vi thôi mà còn phải ghi nhận dùng người, thu phục người chính bới chỉ có người mới làm cho vị lãnh tụ xuất hiện ở bất kể nơi nào và bất thần).

Hai danh ngôn kim cổ chứng tỏ tài năng chính trị của Tào Tháo hành vi tại Duyên Châu.

Bây giờ ta bàn đến kĩ năng giữ và củng cố cơ quan ban ngành thường trực của Tào Tháo.

Làm chính trị có hai điều tối kỵ là ngắn hơi và dềnh dàng. Trong sự nghiệp chính trị: “Đáng kể nhất không phải là yếu tố khởi đầu mà là yếu tố làm đến cùng”. Dẹp loạn khởi đầu xây dựng lực lượng, rồi tạo uy thế, rồi nắm quyền chính chưa đủ, còn cần củng cố vững vàng, tăng trưởng trật tự mới, thúc đẩy tiến bộ. Triều Chính Đông Hán đổ nát, tập đoàn lớn lớn Khăn Vàng dấy lên, rồi Đổng Trác, Vương Doãn, Viên Thiệu, đến Lý Thôi, Quách Dĩ thay nhau nắm quyền chính, nhưng toàn bộ không giữ nổi cơ quan ban ngành thường trực củng cố và tăng trưởng. Tất cả đều ý niệm cơ quan ban ngành thường trực như một thế lực, một phương tiện đi lại để thưởng thức, do đó hành vi của toàn bộ bọn rất ngắn hơi, nghĩa là không biết hướng nào để làm đến cùng. Riêng Viên Thiệu thường phạm phải cái bệnh dềnh dàng, kéo dãn yếu tố lê thê chẳng dứt khoát bề nào bao giờ. Tào Tháo trái lại, ông cưa mạch nào đứt mạch ấy, phối hợp hay đấu tranh riêng với Tháo chỉ là những thủ đoạn, để thực thi đến cùng cho một đường lối chính trị mà Tháo cùng tập đoàn lớn lớn của ông quyết định hành động theo đuổi. Kéo quân về Lạc Dương dẹp loạn, Tháo không phí bao hơi sức mà đã loại ra thuận tiện và đơn thuần và giản dị lực lượng chính trị quan trọng bấy giờ là phe phái Đổng Trác. Nhưng trước mắt Tháo đã hiểu ngay ra kẻ địch đáng sợ trên quân sự chiến lược là lực lượng Viên Thiệu, và trên chính trị là những yếu tố thuộc nội bộ. Tào Thào cũng nhìn thấy ngay nhược điểm của chính mình. Tháo bèn thực thi ngay phương châm của Tôn Tử: “Trước hãy tìm cái thế không thể bại được”. Nên Tháo nghe ngay lời Đổng Chiêu, thiên Triều đình về Hứa Đô để phòng mọi nguy hiểm. Ở Hứa Đô, Tháo đưa công tác thao tác chỉnh đốn nội bộ lên số 1 về mặt thiết kế. Xây dựng sửa sang nhà cửa, cung miếu, lập kho tàng. Về mặt văn học: lập nền tảng giáo dục mới. Về mặt hành chính: định lại những quan tước phẩm vị, trong thời điểm tạm thời dùng đám triều thần cũ và cài răng lược những người dân mới để sẵn sàng sẵn sàng thay thế từ từ. Về mặt xã hội: Tháo đưa ra ba phương châm: Trừ gian- Cấm dâm- Trừng tham. Về mặt kinh tế tài chính: trấn áp và định lại thể thức tô thuế đất ruộng.

Làm cho những người dân sợ gọi là uy, làm cho những người dân chịu gọi là thế. Hợp cả uy lẫn thế lại tức là lực lượng vậy. Có quyền mà không còn lực thì quyền rỗng, có lực mà không còn quyền thì lực hẫng. Uy với thế cũng vậy. Uy là thể mà thế là dụng. Có uy không còn thế cũng vậy. Giống như hổ về bình nguyên làm kẻ thất thế, đã thất thế thì lấy gì để bồi đắp uy cho lớn rộng. Cho nên Tào Tháo lúc nào thì cũng lo kiến lập uy thế. Hễ cứ mỗi hành vi ra uy, ông lại dựa ngay vào đấy để tăng trưởng thế.

Đánh giặc Khăn Vàng ở Duyên Châu là lập uy. Chiêu mộ hiền sĩ là tạo thế. Rút gươm chém Trương Liêu là lập uy, nghe lời Lưu Bị, Quan Vũ tha Trương Liêu, khiến Liêu cảm phục là tạo thế.

Machiavel viết trong quyển Le Prince rằng: “Les Etats subitement formés manquent de racines profondes et le premier orage risque de les renverser” (cơ quan ban ngành thường trực mới xây dựng thiếu rễ sâu sẽ rất bị lật nhào ngay lúc gặp cơn giông bão thứ nhất).

Chính quyền mới lập của Tháo, nhờ phương pháp uy và thế tiến hành tuy nhiên đôi, đã vững như bàn thạch.

Vụ chiếu chỉ Đai áo vỡ ra, Tào Tháo thẳng tay đàn áp, bọn chính thống thường coi việc đó như một dẫn chứng hiển nhiên về tính chất gian hùng tàn ác của Tào Tháo. Các bạn fan hâm mộ, chắc cũng luôn có thể có bạn muốn phán xét phân minh việc làm của Tào Tháo. Vậy xin bạn hãy tìm hiểu thêm lại lời Machiavel: “Cruauté bénie, si elle tue dans l’ oeuf les désordres, gros de meurtres et de rapines, que trop de pitié eût laissé s’élever? Ces désordres blessent la société tout entière, tandis que les rigueurs ordonnées par le prince ne tombent que sur des particuliers. (Hành động tàn ác đáng ban phước lành lúc nào nó tiêu diệt được từ trong trứng sự hỗn loạn chứa đầy chém giết và cướp bóc. Hành động tàn ác ấy vượt xa hẳn tình thương nếu tình thương khiến cho hỗn loạn dấy lên. Hỗn loạn sẽ tàn phá cả xã hội, còn những giải pháp cứng rắn chỉ giết vẻn vẹn mấy thành viên). Machiavel kết luận: protéger d’abord la société, voilà où git la vraie clémence d’Etat. (Bảo vệ xã hội trước hết, đây mới đó đó là lòng nhân từ của nhà nước).

Bọn chính thống đời sau cũng thường mang so sánh vụ giết Đổng Phi, Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Cát Bình với vụ tàn sát của Đổng Trác giết Trương Ôn, vụ chém giết ở Duyện Châu, Thanh Châu với vụ tàn sát ở Lạc Dương. Sự thật những vụ kể trên chẳng mang một điểm tương tự nào cả, dù ta xét chung trên quan điểm chính trị hay trên quan điểm đạo đức.

Đứng trên quan điểm chính trị, Đổng Trác thua xa Tào Tháo một trời một vực. Việc làm của Tào Tháo nhằm mục đích mục tiêu lập uy, còn việc làm của Trác hoàn toàn mang tính chất chất cách khủng bố. Cho nên Tào Tháo chấm hết rất chóng bất kể sự kiện nào có máu chảy người chết, còn Trác kéo dãn ra để làm trò vui, để thỏa mãn nhu cầu tính khát máu thích dọa nạt. Tháo phân định dứt khoát người dân có tội kẻ không. Còn Trác thì miên man chẳng biết nơi nào là bờ bến, làm cho hết thảy mọi người ngồi đứng không yên. Machiavel gọi lối hành vi loại Đổng Trác là tàn ác thú tính và tàn ác vụng về (cruautés mal pratiquees).

Đứng trên quan điểm đạo đức, vụ chém giết ở Duyên Châu, Thanh Châu là kết quả của trận chiến tranh. Còn vụ tàn sát ở Tràng An là kết quả của cuộc đàn áp bắt di dân. Tam Quốc chí diễn nghĩa đã viết rõ ràng tự sự như sau:

Lý Nho xui Đổng Trác:

– Nay tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giầu, nên tịch thu cả lấy của phát cho quân.

Trác lập tức sai năm ngàn quân thiết kỵ đi bắt những người dân nhà giàu ở Lạc Dương, cả thảy mấy ngàn họ, từng người cầm một lá cờ lên đầu để bốn chữ: “Phản thần nghịch đảng” rồi đem ra ngoài thành chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch. Lý Thôi, Quách Dĩ bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Tràng An, cứ mỗi đoàn dân lại cho một đội nhóm quân đi áp, người chết ở dọc hàng không biết bao nhiêu mà kể. Đàn bà con gái đã vừa nhọc vừa đói khát đau đớn trăm chiều, lại còn bị quân lính hãm hiếp, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm, đằng sau có quân lính đốc thúc, quân lính còn chém giết người ngay giữa đường.

Lúc Trác đi, sai phóng hỏa đốt cả cửa nhà dân ở. Trác lại sai Lã Bố khai thác những mồ mả để lấy vàng bạc châu báu.

9.11. Bàn về kiểu cách sử dụng quyền uy của Tào Tháo

Quyền uy là toàn bộ những gì quý báu riêng với chính trị. Do quyền uy mà ta hoàn toàn có thể sinh hay sát, cho hay đoạt, phải hay trái, phúc hay họa, thao túng hay khống chế khắp cơ thể lẫn vật. Tuy nhiên cũng do quyền uy mà chính trị gia hay chính sách bị oán ghét hận thù hoặc được kính nể yêu mến, không biết sử dụng thì bị oán ghét hận thù. Cổ nhân riêng với việc sử dụng quyền uy nêu lên ba điều:

a) Pháp

b) Lệnh

c) Thưởng phạt

Pháp là phương pháp tổ chức triển khai của chính sách, pháp cũng là kỷ cương của chính sách nêu lên để kiểm soát và điều chỉnh sinh hoạt toàn bộ xã hội. Chữ Pháp ở đây nếu đem so với danh từ pháp lý, thì hàm nghĩa nó rộng to nhiều hơn, vì pháp lý chỉ là những điều lệ được ghi rõ ràng để quy định quyền hạn, vị trí, phạm vi cho từng hành vi. Danh từ Pháp theo nghĩa triết học chánh trị phương Đông ngoài những điều lệnh rõ ràng ấy, nó còn gồm có cả một số trong những nguyên tắc sống mà đại không ít người trong xã hội nhìn nhận trên tâm ý. Sách cổ viết: “Pháp là công cụ để trị thiên hạ. Không có pháp tất sẽ mất nhịp độ, mất nhịp tức là hỗn loạn vậy”.

Tào Tháo tiến quân về Lạc Dương, tình hình hỗn loạn tơi bời. Ông đã chế định được pháp nghiêm minh để ngăn ngừa sự loạn. Lúc đánh Duyện Châu cũng như lúc đến Lạc Dương, nguyện vọng của nông dân cũng như lòng mong mỏi của thành phần trí thức đang lên đều được toại ý. Ta hoàn toàn có thể vị trí căn cứ vào việc cải biến nhanh gọn những đám quân nổi loạn ở Thanh Châu, Duyện Châu cùng việc Đổng Chiêu ra sức giúp Tào Tháo bình định Lạc Dương để chức minh.

Lệnh là hình thức biểu thị của pháp. Lệnh ví như sấm sét, gió bão để cổ võ vạn vật cho nên vì thế lệnh phải nghiêm, không mờ ám, không bất nhất sáng thay chiều đổi.

Đức tôn trọng lệnh luật của Tháo, trong đời Tam Quốc chẳng mấy ai sánh kịp. Rất nhỏ nhặt như việc con ngựa của Tháo hoảng loạn dẫm lên ruộng lúa, Tháo đã và đang tự cắt tóc để thị chúng, ta có cho đấy là một thủ đoạn đi chăng nữa, nhưng thủ đoạn không ngoài mục tiêu khuynh hướng về phía sự tôn trọng luật lệnh.

Trong khi Trương Phi say rượu đánh Tào Báo để Lã Bố cướp mất Từ Châu, và Quan Công nóng nảy phá vỡ cả một chủ trương Liên Ngô, Tam Quốc chí không cho ta thấy mảy may giải pháp trừng phạt của Lưu Bị riêng với hai người này dù rất ít.

Về yếu tố thưởng phạt, Hoàng Thạch Công nói:

– “Công nhỏ không thưởng, tất công lớn không còn. Oán nhỏ không tha tất oán lớn phát sinh. Thưởng không làm cho những người dân phục, phạt không làm cho những người dân vui chịu, tất bị phản. Thưởng kẻ vô công, phạt kẻ vô tội, cái nguy đến sau sống lưng.

Sách Quân Cấm viết:

Hương nhĩ chi hạ tất hữu tử ngư

Trọng thưởng chi hạ tất hữu tử phu.

(Dưới mồi thơm chắc có cá chết. Biết trọng thưởng, người sẽ vì ta mà quyết tử). Hàn phi Tử nói: “Ái đa giả tắc pháp bất lập, uy quả giả tất hạ xâm thượng”. (Nuông chiều tất Pháp khó thi hành. Uy ít tất dưới nhờn).

Độc giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa chắc đã có nhiều dịp so sánh Tào Tháo với Lưu Bị về đức tính này. Sự dung túng của Lưu Bị riêng với Quan, Trương gieo mầm cho việc thất thủ Kinh Châu sau này.

9.12. Nghi án Lã Bá Sa và Lưu Phúc

Đời Tào Tháo có hai lần giết người bị đời sau xem là những hành vi tội phạm:

Vụ thứ nhất: giết cả nhà Lã Bá Sa.

Vụ thứ hai: cầm giáo đâm chết Lưu Phúc.

Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người thay quần áo, từng người đeo một thanh gươm, cưỡi một con ngựa đi về quê Tào Tháo. Đi được ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một trong những đám cây cối um tùm bảo Cung rằng:

– Ở trong này còn có Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào chơi thăm nhà, rồi ngủ đấy một đêm, nên không?

Cung nói: Thế thì hay lắm.

Hai người đến cửa, xuống ngựa vào chào Lã Bá Sa. Sa hỏi Tháo rằng: Ta nghe triều đình tầm nã anh cấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần Lưu rồi. Sao anh đến được đây?

Tháo bèn đem chuyện đầu đuôi kể với Lã Bá Sa, rồi trỏ vào Trần Cung nói: Nếu không gặp được quan huyện đây, thì giờ đây đã thịt nát xương tan rồi.

Lã Bá Sa vái Trần Cung rồi nói:

– Cháu nó không gặp được ngài thì họ Tào còn gì? Đêm nay xin ngài hãy thư thả nghỉ lại đây. Nói xong đứng lên vào trong nhà, một chốc trở ra bảo Trần Cung: Nhà tôi không còn rượu ngon. Để tôi sang xóm Tây mua một bình rượu ngon về uống.

Nói rồi lật đật cưỡi lừa ra đi.Tháo với Cung ngồi ở trong nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao.

Tháo bảo Trần Cung rằng:

– Lã Bá Sa riêng với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện này đáng nghi lắm.

Hai người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói:

– Trói lại mà giết.

Tháo bảo cùng Trần Cung:

– Phải rồi, nếu ta không hạ thủ trước thì sẽ bị bắt.

Tháo và Cung hai người cùng rút gươm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy, giết một lúc tám mạng. Tìm đến trong nhà bếp thì chỉ thấy một con lợn trói bốn vó sắp chọc tiết.

Cung giật mình nói:

– Mạnh Đức ơi! Đa nghi giết nhầm phải người tử tế rồi.

Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. Đi được độ hai dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về, trước yên treo hai vò rượu, tay xách một nắm rau quả. Sa hỏi hai người rằng:

– Hiền điệt với sứ quân sao lại đi?

Tháo nói:

– Tôi là người dân có tội không đủ can đảm ở lâu.

Lã Bá sa nói:

– Ta đã dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ quân với hiền điệt ngại gì một đêm. Xin quay ngay ngựa về cho.

Tháo cứ tế ngựa đi. Đi được vài bước, rút gươm ra quay trở lại, gọi Lã Bá Sa hỏi:

– Ai đi đằng sau ông đấy?

Sa xoay đầu lại xem, Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết.

Cung cả sợ hỏi Tháo:

– Lúc nãy nhầm đã đành. Bây giờ sao lại đang tay như vậy?

Tháo nói: Bá Sa về nhà, thấy nhiều người chết, tất yếu không để im, nếu đem người đi đuổi thì ta bị vạ ngay.

Cung nói: Biết rằng mình nhầm rồi, lại còn cố ý giết người nữa, thực là đại bất nghĩa.

Tháo nói:

– Thà rằng ta phụ người còn hơn để người phụ ta.

Tám chữ: ninh ngã phụ nhân, vô nhân phụ ngã của Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã gây phản cảm ghét bỏ của người đời sau riêng với Tháo rất mạnh.

Tào Tháo có tội hay là không? La Quán Trung đã khép tội Tào cứng ngắc trên tiểu thuyết. Nhưng trên chính sử ra sao?

Tôi xin kê khảo ra đây để fan hâm mộ phân xử.

Sách Tam Quốc Chí của Trần Thọ ghi:

“Tào Tháo không chịu nhận chức úy của Đổng Trác nên cải thay tên họ trốn về miền Đông”.

Sách Ngụy Thư chép:

Thái Tổ rõ biết rằng Trác thế nào thì cũng đổ, không lời cáo biệt trốn về quê, tùy tùng có mấy người tìm gặp cố nhân Lã Bá Sa tại Thành Cao. Bá Sa đi vắng. Con cháu Lã Bá Sa phù thích hợp với ít gia nhân đánh Thái Tổ cướp của. Thái Tổ giết mấy người. Sách Ngụy Thư Xuân Thu do Tôn Thịnh đời Tấn chép: “Thái Tổ nghe tiếng dao liếc loẹt xoẹt, nghĩ rằng họ đánh bắt cá mình, nhờ bóng đêm Thái Tổ vào giết hết. Sau biết mình nhầm rồi, nói: Ninh ngã phụ nhân vô nhân phụ ngã. Rồi đi”

Cũng sách trên, Tôn Thị (Thịnh?) chép:

Tư Mã Ý giả bắt Trịnh Tiểu Đồng uống thuốc độc, nói: “Ninh ngã phụ khanh, vô khanh phụ ngã”.

Như vậy tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã lấy tám chữ: “Thà ta phụ người, hơn người phụ ta” ở sách Ngụy Thư Xuân Thu của Tôn Thị. Nhưng ai mới là người thật nói câu đó? Tư Mã Ý hay Tào Tháo. Nếu Tư Mã Ý nói thì câu truyện Lã Bá Sa sự thực thế nào?

Đến vụ Lưu Phúc, Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười tám kể:

Bấy giờ Tháo đã quá say, cầm một ngọn giáo, đứng trên mũi thuyền, đổ một chén rượu xuống sông rồi lại uống luôn ba chén đầy nữa, cắp ngang ngọn giáo nói với những tướng:

– Từ khi ta cầm ngọn giáo này, phá Khăn Vàng, bắt Lã Bố, diệt Viên Thuật thu Viên Thiệu, thọc sâu vào Hà Bắc, duỗi thẳng đến Liêu Đông, tung hoành bốn bể, thật không phụ ý chí của kẻ đại trượng phu. Nay đứng trước cảnh này lòng ta xiết bao sảng khoái. Ta làm một bài hát, những ông đều họa chơi cho vui. Bài hát rằng:

Cuộc vui đã có được là mấy chốc.

Nào khác chi hạt móc sáng ngày.

Nguồn sầu lai láng vơi đầy.

Giải phiền họa có rượu này làm vui.

Chàng áo xanh ngậm ngùi lòng tỏ.

Hươu ngoài đồng hớn hở gọi nhau.

Khách ta, ta đã gặp nhau.

Gảy đàn, thổi sáo ngõ hầu thêm vui

Trăng sáng tỏ, bùi ngùi trong dạ.

Nỗi lo này biết ngỏ cùng ai.

Chuyện trò kể lể xa xôi.

Nhớ người nghĩa cũ cười vui đề huề.

Quạ đem trăng bay về nam hậu.

Quanh ba vòng biết đậu cành nao.

Nước càng sâu núi càng cao.

Châu công trọng khách xôn xao kéo về.

Tháo hát, đoạn mọi người họa theo, cười đùa vui vẻ. Bỗng một bóng người bước ra nói:

– Giữa lúc hai bên đối địch, tướng sĩ so sức, làm thế nào thừa tướng nói gở ra câu ấy?

Tháo nhìn xem thì là Lưu Phúc, thứ sử Dương Châu. Phúc trước làm quan ở Hợp Phì, xây đắp nhiều thành quách, tập hợp những dân phiêu tán, mở trường học, khai khẩn ruộng đất, dạy dỗ nhân dân, theo Tào Tháo đã lâu, lập được nhiều công trạng.

Khi ấy Tháo cắp ngang ngọn mâu, hỏi lại rằng:

– Ta nói gở điều gì?

Phúc thưa: Những câu trăng sáng… quạ bay quanh ba vòng… Không biết đậu vào đâu… là những câu gở.

Tháo nổi giận nói:

– Mày sao dám bẻ tao.

Nói rồi phóng ngay ngọn giáo đâm chết Lưu Phúc.

Lời bàn của Mao Tôn Cương về hồi này sẽ không còn hề nhắc nhở tới cái chết của Lưu Phúc, Mao Tôn Cương chỉ nhìn hẳn về tâm sự riêng tư của Tháo mà thôi. Tháo vui, Tháo yến ẩm nô đùa nhưng đó đó là lúc Tháo đang lo ghê gớm vậy. Hành động ấy cũng như cảnh Ngô Vương Phù Sai đi hái hoa sen và Hạng Vũ uống rượu với Ngu Cơ. Như vậy Tháo giết Lưu Phúc không riêng gì có vì riêng cái cớ Phúc làm mất đi hứng vui của tớ. Vả lại, Phúc là người giỏi giang như Tam Quốc đã kể ở trên thì không lúc nào Phúc lại sở hữu hành vi cẩu thả tương tự. Trong giờ phút quyết liệt, hàng trăm ngàn người sắp sửa lao nguồn vào lửa chinh chiến, cái chết của Lưu Phúc chắc phải có một nguyên do chính trị nào khác mà lịch sử không cho ta rõ đó thôi.

9.13. Kết luận

Kể trong những lãnh tụ chính trị trong Tam Quốc, Tào Tháo là người nhận rõ bản chất thời đại hơn ai hết. Ông hiểu nếu ly khai trận chiến tranh thì mọi yếu tố không xử lý và xử lý. Ông phân biệt nổi chủ thế của trận chiến tranh là gì? Kẻ địch nội ngoại, trước sau làm cho trận chiến tranh mang những nội dung khác hoàn toàn nhau. Do đó mặc dầu ông luôn luôn phát động trận chiến tranh, nhưng trận chiến tranh kế hoạch của ông cũng đều được lồng vào trong một nhu yếu chính trị từng lúc.

Đời sau lên tiếng công kích, coi trận chiến tranh của Tháo là trận chiến tranh vô chính nghĩa vì nhận định rằng: hầu hết những cuộc binh đao lúc bấy giờ không phải là trận chiến tranh đối ngoại, không phải là yếu tố ngoại tộc giết nòi Hán mà là yếu tố dân tộc bản địa Hán giết lẫn nhau. Tào Tháo phải gánh chịu toàn bộ những tội ác binh lửa can qua. Đổ tội như vậy, nghĩa là đã đứng trên một quan điểm chính trị thuần túy nệ vào luân lý, và nếu cứ dùng quan điểm này làm ánh sáng soi xét lịch sử thì không một nhân vật lịch sử nào tránh khỏi tội.

Nhà thơ Cao Bá Quát có câu:

Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn

Mục Dã, Minh Điền hữu Vũ Thang.

Mục Dã, Minh Điền là hai nơi vua Vũ, vua Thang giết giặc dựng nghiệp. Mục Dã, Minh Điền hay 72 trận Lưu Bang đánh nhau với Hạng Võ có thuộc yếu tố ngoại tộc xâm lược đâu. Chính nghĩa hay là không chính nghĩa là ở sự trị hay loạn.

Loạn là lúc hắc ám, thoái hóa.

Trị là thời quang minh, tiến bộ.

Chiến tranh để tàn sát, để vận dụng, để gây loạn, để lấy xã hội vào vòng tối ám, là trận chiến tranh không chính nghĩa. Chiến tranh để mở đường khai lối, trận chiến tranh để đem lại yên bình tiến bộ là trận chiến tranh chính nghĩa. Thời đại Tam Quốc, hình thức cuộc đấu tranh giữa loạn với trị hầu hết là trận chiến tranh. Lúc đó kẻ nào không nắm vững quy luật trận chiến tranh, không hiểu nghệ thuật và thẩm mỹ và làm đẹp trận chiến tranh tất bị đào thải.

Hãy dẫn ra một dẫn chứng của chủ thể trận chiến tranh lúc đó, lịch sử gọi là loạn “bộ khúc”.

Cuối Đông Hán sang Tam Quốc, toàn quốc băng hoại, loạn ly. Trung ương chính phủ nước nhà mất quyền, địa phương chính phủ nước nhà tan rã. Thổ phỉ, lưu khấu, giặc cướp phất như ong. Nông dân không còn cách gì sinh sống, liền phân tỏa gia nhập vào những đại môn đệ hay hào tộc, trở thành tự vệ đội võ trang bảo vệ cày cấy cho những hào tộc, gọi là quân bộ khúc. Tỉ dụ: Trương Tú là hào tộc, Điển Vi tướng đứng đầu quân đội bộ khúc. Trung Quốc có hàng mấy ngàn quân đội bộ khúc, xâu xé cướp bóc lẫn nhau. Vậy thử hỏi nếu muốn thống nhất xứ sở, bình định xã hội mà không còn một tổ chức triển khai trận chiến tranh hoàn bị và mạnh nhất thì liệu có xử lý và xử lý nổi yếu tố chăng?

Đời sau chê Tào Tháo là con người mưu mẹo, quỷ quyệt, nhưng lại tôn sùng ghi nhớ câu nói của vạn thế sư biểu Khổng Tử:

“Hiếu mưu nhi Thành”

Mưu là hành vi của kẻ trí. Nếu làm chính trị mà bị chê vì mưu mẹo, quỷ quyệt thì kẻ đần độn được ca tụng sao?

Hoàng Thạch Công viết: “Phi kế sách vô dĩ quyết hiềm định nghi, phi quyệt kỳ vô phá gian tức khấu, phi dụng mưu vô dĩ thành công xuất sắc” (không kế sách lấy gì mà giải bế tắc, không quỷ quyệt lấy gì mà trấn áp gian khấu, không dùng mưu lấy gì mà thành công xuất sắc?)

Chê quỷ quyệt, chê mưu mẹo bất quá chỉ là một thái độ của kẻ yếu ớt trước người giỏi hơn mình.

Bí quyết thành công xuất sắc của Tào Tháo, bàn đến yếu tố này, ta hãy đem so sự thành công xuất sắc của Tào Tháo với việc thành công xuất sắc của Lưu Bang, tuy sự nghiệp lớn nhỏ rất khác nhau nhưng đấy là vì thời thế chứ không phải do tài năng và hành vi.

Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế, trong bữa đại yến rượu đã ngà ngà, bèn quay ra hỏi quần thần: “Các vị vương hầu, những vị tướng tá, ngày hôm nay tôi muốn những ông phải nói cho thực: tại sao tôi thành công xuất sắc, tại sao Hạng Vũ thất bại?”

Có người đồng hương tên là Vương Lăng đứng lên thưa:

“Bệ hạ thành công xuất sắc nhờ ở lượng lớn biết chia đều. Khi thắng khu vực nào bệ hạ biết phó thác cấp thưởng cho ai. Lợi lộc bệ hạ công khai minh bạch ban phát cho thiên hạ. Còn Hạng Vũ là người bội bạc bủn xỉn, thắng không biết ghi công chiến không biết chia lợi”.

Lưu Bang cười ngất, rồi nói: Đấy mới chỉ là một mặt thôi. Tôi xin thú thực, tài tôi nếu ngồi để thảo kế hoạch, bầy kế hoạch tôi không bằng Trương Lương, nếu sai tôi làm thế nào cho binh lương sung túc, bảo vệ giao thông vận tải lối đi bộ, phân phối công tác thao tác, tôi không bằng Tiêu Hà, chỉ huy trăm vạn quân, chiến vô bất thắng, tôi không bằng Hàn Tín. Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín là ba vị đại hào kiệt tôi biết dùng và dùng nổi; Hạng Võ chỉ có một Phạm Tăng cũng không dùng được. Đấy là nguyên nhân thành công xuất sắc của tôi vậy.

Căn cứ vào câu truyện trên đây thì cái đức chính trị của Lưu Bang khả dĩ thu gọn vào mấy chữ:

“Hữu hiệu dụng nhân, công bình phân tặng”.

(Giỏi dùng người, biết chia đều).

Mọi mặt chuyên tài Lưu Bang đều thua sút Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà nhưng Lưu Bang lại nắm quyền lãnh đạo là vì Lưu Bang biết dựa hành vi của chính ông vào đại thế của thời đại rồi dùng đại thế mà kết chặt ba người kia.

Phép chia lời của Lưu Bang cũng vậy, những người dân theo ông nhất nhất đều được bù công lao xứng danh. Nhưng lối chia lợi, ông biết đặt trên nền tảng thời thượng, nghĩa là làm cho bàn dân thiên hạ vui mừng chứ không phải chia lợi kiểu giặc cướp chia phần.

Tào Tháo không kém gì Hán Cao Tổ về hai điểm này.

Tóm lại, sống vào thời cực nhiễu nhương như Tam Quốc, nhà chính trị phải có sức của một con sư tử đồng thời lại phải khôn ngoan như một con cáo. Con sư tử làm người ta sợ hãi không chống đỡ nổi, con cáo làm cho những người dân ta không biết lối nào mà lường. Sư tử hay cáo đều bị đám quần chúng ngơm ngớp và những lý thuyết gia chính trị nói dóc (théoriciens bavards) bài bác.

Tào Tháo là hình tượng hoàn bị của hai thứ đó, đương nhiên bị ghét bỏ. Tuy nhiên, nếu ta đi sâu vào tâm sự của Tào Tháo, ta cũng tìm thấy ở ông ước nguyện một xã hội vui sướng từ thiện. Tâm sự đó, Tào Tháo đã giãi bày vào bài ca “đối tửu” tạm dịch xuôi là:

Nâng chén rượu, chúc đời thái bình, quân sự chiến lược không còn gì vội vã, đấng quân vương vừa hiền vừa giỏi. Tể tướng, triều thần đều trung lương, biết điều lễ. Dân không tranh giành, ba năm cấy, thóc đủ chín năm. Kho chứa đầy ắp. Người già không phải gánh đội. Súc vật nhiều, phân bón dư. Công hầu bá tử nam, biết yêu dân. Kẻ phạm tội, tùy từng nặng nhẹ mà xét xử. Ngoài đường của rơi không còn ai nhặt. Cửa ngõ mở ngỏ. Mùa đông, già nua không rét cóng. Ân trạch chan hòa đến cây cối và côn trùng nhỏ.

Với tâm sự ấy chắc như đinh Tào Thào không phải là con người lấy giết chóc làm vui thú. Nhưng Tào Tháo lại mang nặng trên vai trách nhiệm to tát. Dẹp loạn tất phải giết những kẻ làm mưa làm gió. Tiến bộ tất phải tiêu trừ những kẻ thoái hóa, phản động.

Bài đối tửu ca, tỏ rõ lòng tự tin tuyệt đối vào việc làm của tớ.

Sau hết riêng với Tào Tháo ta chỉ hoàn toàn có thể nói rằng câu này: “Tất cả mọi điều khen chê đều không xứng danh với ông” như người Ý đã ghi trên mộ Machiavel.Page 3

“Tài của trời đất có ước một hộc. Tào Tử Kiến chiếm chừng tám đấu. Ta một đấu. Còn một đấu nữa thiên hạ chia nhau.” – Đó là lời Tạ Linh Vận nói về Tào Thực.

Tào Thực khiến fan hâm mộ Tam Quốc Chí để ý quan tâm, nhân vụ bị Tào Phi trách tội, bắt làm thơ rồi mới tha. Cũng từ thời gian hiện nay Tào Thực thực sự bị đẩy tới thế can dự vào chính trị nhà Ngụy. Nội bộ nhà Tào sở dĩ không rối loạn ngay đó đó là nhờ vào tính tình đôn hậu nhân ái của Tào Thực.

Tháo trong giờ phút lâm chung cho đòi bọn Tào Hồng, Trần Quần, Giả Hủ, Tư Mã Ý cùng đến hơn cả trước giường nằm, dặn dò việc tương lai:

Cô tung hoành trong thiên hạ hơn ba mươi năm, bao nhiêu kẻ cường bạo trừ sạch cả rồi, chỉ từ Tôn Quyền ở Giang Đông, Lưu Bị ở Tây Thục. Nay bệnh Cô nguy cấp lắm, không bàn được nhiều nữa, chỉ đem việc nhà nhờ cậy những ngươi mà thôi. Con trưởng Cô là Tào Ngang do Lưu thị sinh ra, chẳng may mất sớm ở Uyển Thành. Biện Thị sinh được bốn con Phi, Chương, Thực, Hùng. Cô xưa nay yêu con thứ ba là Thực nhưng nó hay huênh hoang, không được thực thà, lại ngông nghênh rượu chè cho nên vì thế không lập làm thế tử. Thằng thứ hai là Chương có khỏe mà chẳng có khôn, thằng thứ tư là Hùng thì lắm bệnh khó thọ. Chỉ con trưởng là Phi có bụng thành thực, kính cẩn hoàn toàn có thể nối nghiệp Cô. Các người nên giúp sức nó.

Sở dĩ Tháo bỏ hẳn ý định lập Tào Thực kế vị mình, vì những nguyên do: Tháo nhìn nhận người trên kĩ năng chính trị, không nhìn nhận trên kĩ năng văn chương. Tào Thực chỉ hoàn toàn có thể văn chương mà không hoàn toàn có thể chính trị. Riêng về phần Tào Thực, ông không hề có ý tranh chấp với Tào Phi giành giật đế vị như những sử gia đời sau vẫn lầm tưởng. Xem như vụ Tào Tháo sai Thực đi cứu Tào Nhân bị Quan Vũ vây hãm, Thực uống rượu say túy lúy quên mất, đã biết Thực chẳng thiết gì đến chính trị. Nếu có những sự rối loạn xẩy ra chăng nữa thì nguyên động lực không phải ở dã tâm chính trị của Thực, mà do những người dân định dùng Thực để chống tập đoàn lớn lớn chính trị Tào Phi. Tỉ dụ: Bọn Đinh Nghi, Đinh Dị xui Thực chống Phi, Phi đem giết hết.

Ở thời đại Tam quốc con người không cầm quân, không thủ đoạn chính trị như Tào Thực mà vẫn được mọi người để ý quan tâm, tại sao?

Đó là vì sức mạnh tư tưởng và văn chương Tào Thực đã ảnh hưởng đến thành phần trí thức đương thời.

Quan trọng nhất là Tào Thực cực lực chống cảnh tương tàn tương sát, xâu xé phân tranh.

Cành đậu đun hạt đậu

Hạt đậu khóc hu hu

Cùng sinh từ một gốc

Thui nhau nỡ thế ru.

Thất vọng với thực tiễn đầy mưu mẹo quỷ quyệt, xương máu binh lửa, văn chương Tào Thực liền bỏ tính chất phác thực, nhập thế, mong xoay quy đổi đời mà đi vào con phố siêu việt, xuất thế.

“Trong sầu thảm, thư thả bên đường tưởng tượng tiều tụy, gặp Huyền Linh tiên sinh hỏi: Nhà ngươi ốm đau sao đến nỗi tấm thân tàn tạ thế? Tôi đáp: Thưa tiên sinh bệnh buồn. Huyền Linh nói: “Buồn là cái gì? mà làm cho những người dân đau ốm?” Tôi vấn đáp: “Sầu là một vật không gọi nó tự đến, đuổi nó không đi. Tìm không biết nó ở đâu. Cầm nó không đầy nắm tay. Đi lại chẳng ra phương hướng nào, làm rối loạn tinh thần con người. Lúc ăn nó làm nghẹn họng, chất nó độc như cường toan. Cười với nó, nó không chịu. Đem đàn ca tới, nó càng làm cho bi thương. Không thứ thuốc nào chữa khỏi. Tiên sinh chẳng hay có kế chi cứu tôi thoát tay nó chăng?”

Huyền Linh tiên sinh đổi nét mặt nói: Nhà ngươi vừa nói với ta về hình dạng cái sầu. Ta tuy không rõ ai sinh ra nó, nhưng ta biết chỗ nó ẩn.

Chẳng qua là tận nhà ngươi chìm đắm trong lưu tục, luyến hoặc với danh vị, thèm khát vinh hoa cho nên vì thế ngồi đứng không yên, ăn không ngon, lúc nào thì cũng vội vội vàng vàng, làm cho chính khí điêu tàn. Nay ta cho nhà ngươi thang thuốc vô vi, lấy sự đạm bạc làm thang. Rồi ta dùng mũi kim huyền hư, bằng phương pháp thuần phác nhể nó ra. Sau đấy ta cho ngươi yên nghỉ trên chiếc giường tịch mịch. Ta đem cho nhà ngươi những bầu bạn mới, nhà ngươi sẽ cùng với Vương Kiến đi ngao du, cùng Hoành Công ca vịnh, cùng Trang Tử dưỡng thần.

Nghe xong tôi bỗng thấy mồ hôi ướt đầm mình mẩy, phút chốc sầu bi đi đâu hết cả. ”

Viết thế thôi, nhưng Tào Thực không bao giờ hết buồn, hết bất mãn với hiện thực, ông ôm mãi mối hận tới tận ngày chết mới ngoài bốn mươi tuổi. Tào Thực thèm khát môi trường tự nhiên vạn vật thiên nhiên sống đời thường tự do và chán ngấy những ràng buộc không cho gây ra bởi tình hình chính trị quyết liệt đời Tam quốc. Ông cũng muốn vượt thoát khỏi thân phận vương hầu mà không biến thành thác sinh vào đó. Tâm sự ấy ông gửi vào những bài thơ dưới đây.

Tạp thi (Bài thứ hai)

Cỏ bồng rời thân cây

Theo gió chuyển như bay.

Thình lình trận gió lốc,

Đưa cỏ bồng lên mây.

Vút vút lên rất cao mãi,

Đường lên trời dài thay.

Khác nào hành khách nọ,

Ra trận quên thân này.

Mặc không ấm xác thịt,

Ăn không no dạ dày.

Đi, ai đi không ngại,

Lo hão sợ thân gầy.

Sầu cao vầng nguyệt giãi,

Luồng sáng vẩn vơ trôi.

Có một nàng trên đó,

Than phiền nức nở hoài.

Than phiền ai đó ta?

Vợ đãng tử là “tôi”

Mười mấy năm chàng vắng,

Kiếp thân thiếp lẻ loi.

Chàng như hạt bụi nhẹ,

Thiếp tựa nắm bùn hôi.

Chìm, nổi thân, hình khác,

Bao giờ lại sánh đôi

Gió tây-nam muốn những

Cuốn thốc vào lòng ai.

Lòng ai không mở rộng,

Thiếp hết chỗ nương rồi.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Thêm những rắc rối chính trị, những nghi ngờ của Tào Phi càng làm cho Tào Thực không thở được khó sống. Tâm trạng của Tào Thực riêng với tình hình chung quanh chẳng khác gì tâm trạng Kafka riêng với mái ấm gia đình.

Moi, qui ai vécu le plus souvent dans la dépendance, j’ai une soif infinie d’indépendance et de liberté dans tous les domaines. Mais enfin, je suis issu de mes parents, je suis lié à eux et à mes sœurs par le sang. Je les poursuive aussi de ma heine…

Mais, à d’autres moments, je me rappelle qu’ils sont mes parents… J’ai tremblé devant eux et tremble maintenant encore. Ils me dupent, mais comme je ne peux pas m’insurger contre la loi naturelle sans devenir fou, je retombe dans la haine, toujours dans la haine.

Tính chất kỳ lệ nhưng không còn kênh kiệu như Đông Hán, trong văn chương, Tào Thực đã nêu lên cho thành phần trí thức yếu tố tự do giải phóng văn chương khỏi chính trị. Sau này Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn không ít đều chịu ràng buộc của Tào Thực cả. Nho đạo nẩy nòi vô vi, Tào Thực báo hiệu khối mạng lưới hệ thống Nho băng hoại trên chính trị, sang đời Tấn đạo Lão quật khởi đem tư tưởng Phật giáo gia nhập Trung Quốc, gây ra tình trạng Nam Bắc phân tranh và loạn Ngũ Hồ.Page 4

Toàn bộ lịch sử Trung quốc có bảy thời đại phân liệt:

1- Xuân Thu chiến quốc.

2- Hán Sở tranh hùng.

3- Tam Quốc.

4- Nam Bắc triều.

5- Tùy Đường phân tranh.

6- Ngũ đại thập quốc.

7- Tống Kim phân lập.

Thời đại Nam Bắc triều và Nam Tống, sự tranh chấp do dân tộc bản địa phân lập, ý niệm Trung Hoa và dị tộc nặng nên không đáng kể.

Còn lại Xuân Thu chiến quốc, Hán Sở tranh hùng, Tùy Đường phân tranh, Ngũ đại thập quốc và Tam quốc, sự tranh chấp hoàn toàn nội bộ và riêng Tam quốc tính chất chính trị cao hơn hết. Vì vậy tuy Hán Sở, Tùy Đường, Ngũ Đại, Xuân Thu, đều được thành lịch sử diễn nghĩa, nhưng Tam Quốc chí diễn nghĩa vẫn được lưu truyền và yêu thích hơn hết. Các bản cổ kịch Trung hoa phần lớn rút ra từ Tam quốc nhiều hơn nữa những sử khác. Các nhà soạn kịch nổi tiếng thường rất ưa thích chuyện của Tam quốc. Tỉ dụ như Vương Hoa soạn vở Ngọa Long Cương.

Vương Thực Phủ soạn vở: Lục Tích hoài quất, Tào Thực.

Quan Hàn Khanh soạn vở : Đơn đao hội.

Thượng Trọng Hiền soạn vở: Gia Cát Luận công.

Cao Văn Tú soạn vở: Lưu tiên Chủ Tương dương hội v.v. và những vở nổi tiếng do những soạn giả vô danh như: Liên Hoàn kế, Bác Vọng thiêu đồn, Cách giang đấu trí v.v…

Đến nhà Thanh, Tam quốc coi như sách gối đầu giường của những chính trị gia. Đầu nhà Thanh còn tồn tại Tổ Vũ trước tác cuốn “Độc sử phương yếu” bàn đến những chiến trận Tam quốc vị trí căn cứ vào địa lý học thật nhiều.

Tại sao Tam quốc lại được chuộng như vậy?

Có hai lẽ:

Một là: Những sách diễn nghĩa về thời đại Xuân Thu chiến quốc quá ít tài liệu lại quá ít vị trí căn cứ, thêm nữa tình tự Xuân Thu chiến quốc rất phiền tạp, khó lòng làm cho những người dân đọc mãn ý, thỏa thuê. Sở Hán, Tùy Đường thì ngắn quá, vả lại tranh chấp không còn gì gay go. Còn Ngũ đại thập quốc thì lôi thôi, nhân tài của thời đại cũng tầm thường.

Hai là: Tam quốc chính trị tuyệt cao. Tranh chấp cực gay go kỳ diệu. Các giá trị đều va chạm nhau ở thời đại này. Cái đạo đức của Quan Vũ va chạm với cái trí mưu, lão luyện của Tào Tháo. Cái trí mưu lão luyện của Tào Tháo va chạm với cái thiên tài của Gia Cát Khổng Minh. Tam quốc là thời đại mà sự vận động của thành phần trí thức rõ rệt nhất và cũng ly kỳ nhất, và khuyết điểm của thành phần trí thức Tam quốc thật là muôn mầu muôn vẻ. Quyết đoán quân cơ như Từ Thứ, Bàng Thống; hành quân dùng binh như Chu Du, Lục Tốn, Tư Mã Ý. Liệu người liệu việc như Triệu Vân, Quan Vũ, Trương Phi, Hoàng Trung, Nghiêm Nhan. Xung phong hãm trận kiêu dũng như Mã Siêu, Hứa Chử, Điển Vi, Lã Bố, Thái Sử Từ. Hai tài tương tự đấu trí như Đặng Ngải (với Chung Hội, hay Khương Duy?). Gàn dở như Nễ Hành. Huênh hoang như Khổng Dung v.v.v.

Ngoài ra toàn bộ ai cũng yêu Tam quốc chí diễn nghĩa ở đoạn phóng khoáng của nhà văn La Quán Trung, đã phá được sự gò bó của yếu tố thật lịch sử để mà tạo ra hứng thú nhiệt náo tình tiết ly kỳ. Mặc dầu ở đây mục tiêu của toàn bộ chúng ta là đi tìm một phương pháp khác với “Độc Tam Quốc chí Pháp” ghi trên đầu sách Tam quốc, nghĩa là toàn bộ chúng ta bàn luận, khơi đào kê khảo để hiểu nguyên nhân lịch sử chính trị, xã hội, tư tưởng cho từng sự kiện, mọi biến từng (tướng?) cục diện Tam quốc chứ không biến thành lôi cuốn bởi văn chương Tam quốc đến nỗi nghĩ rằng Thục Ngụy chỉ chiến không hòa hay Ngô Thục chỉ hòa nhiều hơn nữa chiến và Ngô Ngụy chiến nhiều hơn nữa hòa, là để chứng dẫn bút pháp tài tình của nhà văn.

Tuy nhiên sau khi đã phân tích bản chất và hiện tượng kỳ lạ, nguyên nhân và kết quả, vị trí căn cứ và Đk, kĩ năng và hiện thực cùng liên hoàn tính của chính cục Tam quốc rồi, toàn bộ chúng ta lại vẫn hoàn toàn có thể trở về cái phóng dật của bản tính của người Đông phương riêng với chính trị để mà ngâm ngợi mấy câu cổ phong:

Phân phân thế sự vô cùng tận

Thiên số mang mang bất khả đào

Tam phân đỉnh túc dĩ thành mộng

Hậu nhân bằng điếu không lao tao.

(Ngẫm thế sự bời bời ngán nổi

Cuộc tang thương biến hóa khôn lường

Tam phân một giấc mơ màng

Viếng đời gọi có mấy hàng nôm na).Page 5

Đọc chuyện Tam Quốc, ai cũng hiểu mầm loạn đời Hậu Hán nẩy ra từ lúc vua Linh Đế sủng bọn Thập thường Thị. Thập thường Thị là nguyên nhân dẫn đến giặc Hoàng Cân (khăn vàng), nhân giặc Khăn Vàng mà có sự khởi binh của Lưu Bị và Tôn Kiên. Lại vì vua Linh Đế băng hà, Thiếu Đế tức vị, Hà Tiến lập mưu tiêu trừ bọn hoạn quan, mở đường cho Đổng Trác đem binh vào kinh. Đổng Trác đem binh vào kinh là đầu mối của một sự phế lập. Việc Đổng Trác bỏ một vua, tôn một vua tạo ra chuyện Viên Thiệu và Tào Tháo dấy binh. Thiên hạ điêu linh, phân sẻ từ đây.

Nói về hiện tượng kỳ lạ hoạn quan và ngoại thích, ta không thể đổ lỗi hoàn toàn cho Linh Đế cũng như cho riêng một ông vua nào khác. Hiện tượng ấy nào phải đến Linh Đế mới có. Đời vua Tuyên Đức trước đã xuất hiện Hoắc Quang, Thạch Hiển. Vua Quang Vũ cũng rất trọng dụng ngoại thích; vậy hoàn toàn có thể nói rằng được rằng: hoạn quan và ngoại thích là hậu họa tất yếu của chính trị chuyên chính lối vua quan phong kiến.

Hoạn quan và ngoại thích là cái ung độc ẩn ngay chỗ xương cụt của chính trị phong kiến, lúc nào nó cũng rình rập thời cơ để thối ra, độc khí một khi đã bung vỡ thì chỉ có mỗi ngày mỗi thêm phát tác hủy hoại, chứ khó lòng lành lặn được nữa.

Ngược lên ngày Lưu Bang nhất thống thiên hạ, ta đã thấy cái ung độc hoạn quan ngoại thích mọc ra rồi. Lưu Bang sở dĩ vượt mặt được Sở Vương mà đoạt cơ quan ban ngành thường trực là vì biết nhờ vào lực lượng thành phần trí thức (giai cấp sĩ).

Nhưng tập đoàn lớn lớn của Lưu Bang lại không tôn trọng thành phần trí thức cho lắm. Cái này cũng chẳng lấy gì làm lạ, bởi tại họ hết thảy đều là những con người phong bái giang hồ. Theo phò nghĩa lớn, họ hoàn toàn trông vào sự xử lý và xử lý trước mắt, đồng thời hòng kiến lập sự nghiệp riêng, cho bõ những ngày gian truân. Họ không cần nhìn rộng trông xa, chẳng muốn vươn duỗi vào tương lai. Nói chung, tâm ý toàn thể tập đoàn lớn lớn Lưu Bang cần hưởng ngay, ăn ngay. Tâm lý đó không kết phù thích hợp với kỳ vọng của thành phần trí thức. Để kéo vây cánh, Lưu Bang một mặt xây dựng cốt cán bằng những người dân giang hồ phong bái, mặt khác tìm mọi cách đẩy thành phần trí thức ra ngoại vi, ngưng trệ không cho thành phần trí thức lớn lên trong guồng máy thống trị, không cho thành phần trí thức có quyền bính. Lưu Bang thường cáu kỉnh mệnh danh thành phần trí thức là bọn hề nho. Ngụy Báo ghi chép: “Hán Vương nhục mạ quần thần như nô lệ, chẳng có lễ xấp xỉ chi cả. Cho nên tôi không thích gặp nữa”. Tiêu chuẩn kéo vây cánh không đặt nặng vào sự củng cố và tăng trưởng cơ quan ban ngành thường trực qua ý nghĩa “Thiên hạ vi công” mà chuyên đặt nặng yếu tố củng cố cho việc an hưởng phú quý tộc họ thành viên. Với tiêu chuẩn ấy thì phỉnh nịnh là tư cách cơ bản để được lựa chọn. Con đường nguy khốn hoạn quan, ngoại thích đã vạch sẵn, không thể bước ra ngoài được nữa.

3.1. Hoạn quan

Độc giả Tam Quốc, phần lớn đặt rất hẹp hai chữ hoạn quan. Tất cả nhận định rằng bọn hoạn quan chỉ là những người dân bị “yêm” nghĩa là đã chịu giải phẫu để tự tước bỏ bộ phận sinh dục. Tôi e không đúng hẳn, chính bới trong Lễ ký, thiên Khúc Lễ có câu: “Hoạn học sự sư, phi lễ bất thân” (Học làm quan phải thờ thầy, phàm cái gì phi lễ thì không gần) ý tứ của chữ hoạn đây không riêng gì có vào người bị “cắt bỏ bộ phận sinh dục”. Vẫn hay rằng triều Hán, vua Quang Vũ trung hưng, theo sách “Hoạn giả liệt truyện” thì nói “Trung hưng chi sơ hoạn giả tất dụng yêm nhân” (đầu trung hưng, chức hoạn đều phải dùng người bị yêm). Nhưng sách liệt truyện không đưa được chứng cứ nào rõ rệt cả.

Như vậy ta hoàn toàn có thể đặt định phạm vi hoạn quan như sau: Hoạn quan là thành phầm của chính trị chuyên chính xây dựng trên cơ sở tộc họ, thành viên. Là một tập đoàn lớn lớn chính trị có một thế lực rất rộng và một đường lối bại hoại. Phương thức đấu tranh duy nhất của tập đoàn lớn lớn hoạn quan là yếu tố phỉnh nịnh, hiếu mị, xu phụng và tiếm quyền. Thành phần của tập đoàn lớn lớn, không phải chỉ có bọn yêm hoạn Trương Nhượng, Kiển Thạc mà còn tồn tại thể kể cả bọn trí thức gia nhập khối mạng lưới hệ thống lại trị, đã thoát tiết với quần chúng mà toa rập với Hoàng Triều để đuổi theo lợi lộc.

Tại sao Hoàng Đế với Hoạn quan luôn luôn là đôi bạn tương đắc? Có ba lẽ. Một là, khi quyền lực tối cao chính trị triệu tập vào tay thành viên, thì chẳng chóng thì chầy quyền lực tối cao chính trị sẽ trở thành dụng cụ xây dựng cơ nghiệp riêng, củng cố sự tọa hưởng an nhàn của ông vua. Trong hoan lạc, Hoàng đế rất nhu yếu người đồng tính, du nịnh. Bọn hoạn quan có nhiều kĩ năng về mặt này nhất. Hai là, Hoàng Đế thường hay nghi kỵ, không ngớt lo ngại những vụ phản bội. Sợ những triều thần chân chính cản ngăn vui thú của tớ, hoặc thủ đoạn kết đảng, còn bọn hoạn quan chỉ việc ăn sung mặc sướng no đủ, lại ít tham vọng chính trị, uy tín hơn hết. Nhưng lịch sử đã có những dẫn chứng rõ rệt ngược lại với ý niệm của Hoàng Đế về hoạn quan như bọn Dịch Nha, Thụ Điêu đời vua Tề Hoàn Công và bọn Thập thường Thị đời vua Linh Đế. Mong dùng hoạn quan để khỏi bị phản bội thì cũng chẳng khác chi chú khờ sợ chuột ăn mất mỡ bèn đem nhốt mèo vào canh. Ba là: do cái tâm chất kiêu sa của con người nắm quyền quá rộng nên thích tiếp xúc với bọn nô bộc hơn là với những tập sự thẳng thắn.

3.2. Ngoại thích

Mầm loạn ngoại thích so với hoạn quan cũng chẳng kém phần nguy hiểm. Hơn nữa ngoại thích với hoạn quan là hai vật tương sinh, tương thành. Ngoại thích là gì? Là thân thích của Hoàng Đế. Bọn học phiệt nịnh hót thường dùng danh từ Quốc thích để chỉ những người dân thân trong gia đình thích của vua, lâu dần danh từ Quốc thích trở nên tục thoại. Thực ra Hoàng Đế là Hoàng Đế, Quốc Gia là Quốc Gia sao lại đem gộp làm một được.

Thân thích phân ra làm hai loại: nếu ăn theo dòng phụ hệ thì gọi là Tôn Thất. Nếu ăn theo dòng mẫu hệ thì gọi là ngoại thích. Tuy cùng thân thích, nhưng giữa Tôn thất và Ngoại thích bao giờ cũng âm ỷ một ngọn lửa xung đột. Ngoại thích không ngừng nghỉ mưu toan lật đổ thế lực Tôn thất mà cướp thiên hạ cho tộc họ mình.

Tam Quốc phân tranh nhóm lên bằng nạn Ngoại thích trầm trọng. Vua Linh Đế có hai con là Biện tức Thiếu Đế và Hiệp. Biện do chính cung Hoàng hậu Hà thị sinh ra còn Hiệp là con của một mỹ nhân hậu cung. Linh Đế yêu Hiệp hơn Biện, muốn cho Hiệp kế vị, nhưng lại sợ làm trái tập quán, nên mới đem ý định nhắn nhủ bọn Kiển Thạc. Linh Đế chết, một bên Kiển Thạc ủng hộ Hiệp, một bên anh Hà Thái Hậu là Hà Tiến ủng hộ Biện. Tranh chấp giữa bọn Trương Nhượng, Kiển Thạc với Hà Tiến lôi kéo luôn cả Đổng Thái Hậu vào vòng chiến. Đổng thái Hậu nghe lời Nhượng, Thạc giáng chỉ phong Hiệp làm Trần Lưu Vương và định thiết lập thêm một quyền thế cài cạnh bên Thiếu Đế.

Trong hồi thứ hai, tình hình tranh chấp giữa Đổng thái Hậu và Hà thái Hậu được La quán Trung tả lại như sau:

‘Yến ẩm nửa chừng, Hà thái Hậu đứng lên rót một chén rượu dâng Đổng Thái Hậu, vái hai vái rồi nói rằng:

Chúng ta là đàn bà, theo lẽ tránh việc dự vào triều chính. Xưa bà Lã Hậu chỉ vì tạm giữ trọng quyền mà đến nỗi họ Hàng trăm người đều bị tru lục, tấm gương còn đó, vậy từ nay toàn bộ chúng ta hãy cùng rút lui vào thâm cung để dành việc lớn triều đình cho những vị nguyên lão đại thần lo toan bàn luận. Được thế thì Quốc gia đại hạnh. Xin nghe lời thành thực này cho.

Đổng thái Hậu nổi giận mà rằng:

Ngươi đang tâm giết hại Vương Mỹ Nhân, tâm địa ganh ghét rành rành ra đó. Nay ngươi cậy có con vua, anh ngươi có thế lực mà đâm loạn ngôn, hỗn láo với ta à? Liệu hồn ta bảo cho mà biết, ta muốn quan Phiêu Kỵ Tướng quân lấy đầu anh ngươi lúc nào thì cũng dễ như trở bàn tay.

Hà Thái Hậu nổi giận mà rằng:

Ta lấy lời phải chăng khuyên nhủ, đang không nghe lại trở mặt giận là lý thế nào?

Đổng Hậu mắng:

Mày là đồ con nhà hàng quán ăn thịt, thì còn kiến thức và kỹ năng gì.

Hà Thái Hậu đem chuyện nói với Hà Tiến, Tiến liền đem binh sĩ đuổi Đổng Thái Hậu thoát khỏi cung cấm, và vây hãm nhà Phiêu Kỵ Tướng Quân là Đổng Trọng. Đổng Trọng ra sau nhà tự tử. Người nhà khóc ầm lên. Trương Nhượng thấy Đổng Thái Hậu bị phế, tức tốc đem châu báu, vàng bạc link với em trai Hà Tiến là Hà Miêu và mẹ Tiến, xin che chở. Bởi vậy bọn Thập thường Thị chẳng những vô sự mà còn được trọng dụng hơn.

Đại khái sự diễn biến của loạn ngoại thích đều tầm thường vui nhộn như vậy cả. Nhưng không phải là nó không còn công dụng chính trị tiềm ẩn bên trong đâu. Tranh chấp ngoại thích đó đó là chiếc ngòi để làm nổ cả kho thuốc súng. Tác dụng của nó là tạo ra một sự biến chuyển cơ. Nút chuyển cơ rất thiết yếu cho tăng trưởng xã hội, tăng trưởng chính trị. Nút chuyển cơ ấy ví như tiếng sấm báo hiệu lượng mưa trong câu ca dao Việt:

– Lúa chiêm phơ phất đầu bờ

– Hễ nghe sấm động, phất cờ lúa lên.

3.3. Xung đột giữa thành phần trí thức và hoạn quan

Phần tử trí thức phẫn nộ

Thời đại Chiến Quốc, thành phần trí thức triệu tập ở Tần khiến Tần kiêm tính thiên hạ. Tần Thủy Hoàng xưng đế được tám năm, nhân vận dụng chủ trương của Lý Tư, pháp lệnh quá khắt khe, đối đãi tàn ngược với dân chúng. Thậm chí nhà Tần phản bội trí thức, đốt sách chôn nho. Tần Đế đuổi theo tư tưởng dị đoan cầu tiên, xin thuốc tràng sinh bất lão. Phần tử trí thức liền tan biến vào dân chúng, lãnh đạo vận động phản Tần. Đáng kể như Tiêu Hà, Trương Lương, Thúc Tôn Thông, Trương Xương, Trần Bình…. Lúc đầu họ theo phò cả Hạng Võ lẫn Lưu Bang, sau từ từ quy tụ hết lực lượng về phía Lưu Bang. Phần tử trí thức trong tay tuy không còn lấy nổi một tấc sắt, sức lực cũng chẳng được bao nhiêu, nhưng sức mạnh phi thường của tri thức là mưu trí, là yếu tố cổ súy thiên thiên vạn vạn nhân tâm. Cho nên phàm khi thành phần trí thức đang không còn tin để phản đối một chính phủ nước nhà nào đó thì chính phủ nước nhà đó ít hoàn toàn có thể tồn tại.

James BURNHAM viết: “Khoa học chính trị và khoa học lịch sử trước hết phải nghiên cứu và phân tích kết cấu, cơ sở cùng liên hệ với quần chúng của thành phần trí thức”[1] Câu đó là một quy luật bất di bất dịch riêng với chính trị sử vậy.

Lưu Bang nhờ vào thành phần trí thức mà đắc thế. Chỉ ít lâu sau, Lưu Bang thi hành chủ trương lại trị, quay trở lại thờ ơ, từ bỏ lực lượng trí thức. Chính sách lại trị của Lưu Bang ngày càng đi vào giải pháp phong kiến cũ, nghĩa là mầm phân liệt lại rình rập đe dọa nền thống nhất vừa mới thiết kế xây dựng. Phần tử trí thức một lần nữa tản mạn vào trong dân chúng, dùng phương tiện đi lại văn hóa truyền thống tư tưởng để gìn giữ thống nhất, đồng thời tạo thành xích míc giữa thành phần trí thức với khối mạng lưới hệ thống lại trị.

Đến đời vua Hoàn Đế, Linh Đế thì chính trị Hán triều ác hóa đến cực điểm bằng hiện tượng kỳ lạ hoạn quan. Thiên hạ bấy giờ hoàn toàn có thể nói rằng rằng: Thiên hạ của bọn hoạn quan.

Xã hội lúc ấy một mặt thì chính trị chuyên chế trụy lạc, một mặt thì văn hóa truyền thống tăng trưởng. Một mặt thì hoạn quan tập quyền, một mặt thì khí thế của thành phần trí thức mỗi ngày một lớn. Đương nhiên cuộc xung đột không thể tránh khỏi.

3.4. Ẩn dật và ra mặt chống đối

Thái độ của thành phần trí thức sau khi Hán Vương thi hành chủ trương lại trị và giải pháp phong kiến khả dĩ phân thành hai quy trình: a) rút lui về thôn dã ẩn dật, b) ra mặt lãnh đạo vận động lật Hán Triều. Ông Khổng Tử nói: ” Dụng chi tắc hành, xã chi tắc tàng” (dùng thì hành vi, bỏ thì ẩn dật). Hai chữ hành và tàng là hai thái độ nói trên. Nhưng sự ẩn dật của Nho sĩ thật nguy hiểm vì trong số đó chứa chất chẳng những tâm ý bất hợp tác mà còn tiềm tàng thủ đoạn vận động xoay chuyển quật khởi để đánh đổ cơ quan ban ngành thường trực thối nát nữa.

Cuộc xung đột giữa thành phần trí thức và hoạn quan bùng nổ khởi từ cung đình rồi phủ rộng rộng tự do ra mãi ra như vòng sóng nước.

Hồi thứ nhất, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể rằng: “Khi vua Hoàn Đế băng hà, Linh Đế lên ngôi, có quan Đại tướng quân Đậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp trị việc nước. Thời bấy giờ có bè lũ hoạn quan Tào Tiết lộng quyền làm bậy. Đậu Vũ, Trần Phồn mới lập mưu tru diệt chúng để trừ vạ cho nước, nhưng vì mưu không kín kẽ, hai vị này cũng trở nên giết hại.

Có quan Nghị Lang là Thái Ung dâng sớ tâu rằng: “Rắn sa, gà mái hóa trống là điềm đàn bà và hoạn quan làm mưa làm gió nước”. Lời dâng thống thiết, Vua xem qua thở dài, bùi ngùi một lúc rồi quay vào thay áo. Bấy giờ Tào Tiết đứng sau sống lưng nghe trộm bản tâu, giận lắm, liền vào bầy mưu với phe phái của hắn. Chúng bèn bầy mưu kiếm việc gieo tội cho Thái Ung và không bổ nhiệm đuổi ông về.

Rồi đến vụ Thập Thường Thị lộng hành. Hoạn quan Trương Nhượng được Linh Đế gọi là Á Phụ, Thập Thường Thị uy hiếp thành phần trí thức trong triều như Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn….

Loạn Khăn Vàng, tranh chấp ngoại thích và hoạn quan, quân phiệt Đổng Trác vào Kinh đô gây chuyện phế lập đều là những đòn chí mạng đánh quỵ Hán Triều. Toàn dân mong mỏi biến hóa, thành phần trí thức khắp bốn phương trời hết thẩy cảm thấy có trách nhiệm phải lập lại một nền trật tự mới. Họ liền tự động hóa đi tìm hoặc gây lực lượng ngay ở địa phương từng người cư ngụ.

Do đó, lần lượt người ta thấy những: Giả Hủ, Thẩm Phối, Tuân Úc, Trình Dục, Tuân Dy (Du?), My Trúc, Trịnh Huyền, Trần Cung, Trần Đăng, Trần Khuê, Ngu Phiên, Quách Gia, Cố Ung, Trương Chiêu, Chu Du, Dương Tu, Trần Lâm, Vương Xán, Tư mã Huy, Từ Thứ, Thôi Châu Bình, Bàng Thống, Gia Cát Lượng….. xuất hiện ở nhiều nơi và phò giúp những lực lượng rất khác nhau. Tuy thành phần trí thức phân tán vào những quyền bính chống đối, nhưng chống đối bất quá chỉ để mong cơ quan ban ngành thường trực cả thiên hạ thu vào tay mình mà thôi. Tất cả đều phải có một khuynh hướng chung là quy tâm vào thống nhất.

3.5. Loạn Khăn Vàng

Nói đến loạn Hoàng Cân (khăn vàng), toàn bộ chúng ta nên phải nêu ra mấy điểm lưu ý của vận động này:

A) Loạn Khăn Vàng là một cuộc vận động chống bọn thống trị nhà Hán của nông dân tự phát khởi vì nông dân quá đói khổ. Bằng chứng là loạn Khăn Vàng đều nhóm lên từ những khu vực đất đai nghèo, hoang, mất mùa.

B) Do tranh chấp tư tưởng Hoàng Lão với tư tưởng chủ lưu Khổng Tử, Quản Trọng. Thời Xuân Thu, Chiến Quốc những nước phân tranh, tư tưởng tự do phồn thịnh trăm nhà lên tiếng. Sau Tần thì thiên hạ thống nhất, những học thuyết cũng chịu áp lực đè nén chính trị quy vào thống nhất. Tần triều quy vào pháp lệnh, đầu đời Hán quy vào thuyết Hoàng Lão, đến Hán Vũ Đế thì biểu chương Lục Kinh, tôn phụng Khổng Tử mà truất bãi những thuyết khác. Một ngành của học thuyết Hoàng Lão trở thành tư tưởng thần quyền vào phong tục tế tự ở nông thôn, nhờ vào đầu óc chất phác của nông dân mà chống lại trí thức Nho của Khổng môn.

C) Do tranh chấp quyền bính với TW vì những nhân vật trọng yếu của vận động Hoàng Cân đều là quan quân thủ hạ của Ích Châu mục Lưu Yên. (Ích Châu gồm những tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên và miền nam tỉnh Thiểm Tây giờ đây)

D) Chịu ảnh hưởng chủ trương ruộng đất của Vương Mãng và tổ chức triển khai Xích Mi

Loạn Hoàng Cân mở đầu bằng việc: tại núi Long Hổ tỉnh Giang Tây và tại Cự Lộc có mấy người họ Trương như Trương Lỗ, Trương Giốc tự xưng là Đại Hiền Lương sư, theo đạo Hoàng Lão, có tài năng phù thủy đọc chú chữa bệnh vì đã được Nam Hoa Lão Tiên trao cho bộ Thiên thư Thái Bình Yếu thuật. Nông dân vì quá đói khổ nên mê tín dị đoan Thần Quyền. Bọn Trương Lỗ, Trương Giốc tổ chức triển khai hội kín lập đạo thờ Thái Thượng Lão Quân. Nông dân nô nức hùa theo Trương Lỗ, Trương Giốc. Nhờ vậy trào lưu Khăn Vàng càng lên vọt. Trương Lỗ, Trương Giốc nhờ vào uy thế thần quyền mà tung ra câu sấm “Sương thiên dĩ tử, Hoàng thiên đương lập” (Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên) làm khẩu hiệu đấu tranh.

Muốn tìm sự thành công xuất sắc và thất bại của cuộc vận động Hoàng Cân, trước hết phải xét lại nguồn gốc của nó.

Căn cứ vào Tam Quốc Chí thì gốc loạn Hoàng Cân khởi tự đạo sĩ Trương Lăng. Trương Lăng người tỉnh Tứ Xuyên, tu đạo ở núi Thước Minh và cũng truyền đạo ngay tại vùng này. Những người muốn đến học đạo của Trương Lăng đều phải làm lễ bằng năm hộc gạo. Trương Lăng chết, truyền nghiệp cho con là Trương Hành, Trương Hành chết truyền cho con là Trương Lỗ.

Căn cứ vào Hậu Hán Thư Linh Đế Ký thì vận động Hoàng Cân khởi tự tên Phù Thủy Trương Tu, dùng tà đạo phiến hoặc dân chúng nổi lên cướp Ba quận. Trương Tu thường xưng là: Ngũ Đấu Mễ Sư (ông thầy năm đấu gạo).

Nhưng quan bộ hạ vị trí căn cứ theo những thuyết của nhiều sách khác đem so sánh tổng hợp lại thì đều phải có nói rằng: Trương Lỗ và Trương Tu là quân dưới trướng Ích Châu mục Lưu Yên. Lưu Yên sai Lỗ và Tu vào cướp Hán Trung. Vào Hán Trung rồi Trương Lỗ liền giết Trương Tu rồi cải biến sát nhập lực lượng Trương Tu thành lực lượng của tớ. Khi có thanh thế khá vững mạnh, Trương Lỗ ly khai với Lưu Yên, đem quân đánh cả vào vùng Lưu Yên cai trị là U Châu. Do đó mới có chuyện Lưu Yên treo bảng chiêu mộ nghĩa binh tạo ra thời cơ cho gặp gỡ và kết nghĩa vườn đào.

Trong ba người: Trương Giốc, Trương Lỗ và Trương Tu thì Trương Giốc là người nhiều mưu đồ hơn hết. Trương Giốc kỳ vọng phiến động nhân dân nổi loạn để mà chiếm thiên hạ. Trương Lỗ và Trương Tu trên chính trị hoàn toàn chỉ là một lực lượng phụ trợ chứ không phải là lực lượng chỉ huy. Căn cứ vào sách Hậu Hán, chuyện Hoàng Phủ Tung thì lực lượng Trương Giốc lan ra khắp những châu bao quát những tỉnh Giang Tô, An Huy, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc giờ đây. Đảng Trương Giốc lên tới mấy chục vạn, chia ra làm 36 phương, mỗi phương ước hơn vạn người.

Về câu sấm “trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa thường không để ý vì nghĩ những lời ấy chẳng qua là thuyết của bọn thảo khấu, chẳng nghĩa lý gì cả. Thật ra không phải đơn thuần và giản dị như vậy.

3.6. Từ Hoàng Cân, hoạn quan đến quân phiệt

Một khẩu hiệu tung ra, muốn làm xấp xỉ nhân tâm thì trước hết khẩu hiệu đó hoàn toàn có thể lý giải cho mọi người hiểu được. Người xưa còn ưa những điều huyền bí cho nên vì thế khẩu hiệu cần lồng vào cái cốt huyền bí, nhưng không phải vì vậy mà người ta nói rằng đấy là mê hoặc nhân tâm, đấy là một lời nói vu vơ.

Mấy chữ “Sương thiên dĩ tử, hoàng thiên đương lập” chẳng những không mê hoặc mà còn tồn tại hàm súc ý nghĩa về sự việc biến thiên của xã hội trong ý niệm của nông dân lúc bấy giờ nữa. Dưới đấy là chứng cớ:

Theo Hán thư thì lúc khởi đầu khởi nghiệp, Hán cao Tổ đang đêm đi đường hốt gặp một con rắn trắng rất rộng nằm chắn ngang đường, bèn rút gươm chém đứt làm hai đoạn. Khi Hán cao Tổ đi rồi, có người trông thấy một bà lão xõa tóc ngồi khóc ngay chỗ con rắn trắng chết. Người kia bèn lại hỏi nguyên do, bà lão đáp: con tôi là con vua Bạch Đế hiện đã biết thành con vua Xích Đế giết rồi. Nói xong bà lão biến mất.

Những sắc tố trắng, đỏ, vàng, đen, xanh rất quan hệ riêng với tâm ý nông dân Trung Quốc. Tại sao? Bởi vì nông dân làm ruộng chỉ trông cậy vào khí hậu bốn mùa biến hóa làm cho cây cối sinh ra, lớn lên và chín. Trước biến hóa của tự nhiên, người nông dân tin rằng mỗi mùa đều phải có một vị thần linh chủ trì. Và mỗi vị thần linh đều ứng theo mỗi sắc tố trong tự nhiên. Do đó người nông dân mới thờ bốn vị thiên đế: Ông Trời Xanh chủ về ngày xuân sinh ra vạn vật cây cối. Ông trời Đỏ chủ về mùa hạ làm cho vạn vật lớn lên. Ông trời Trắng chỉ về ngày thu làm cho hoa lợi chín. Ông trời Đen chỉ về ngày đông, nhắc mọi người gặt hái và dự trữ thóc gạo.

Nhưng Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn hết thẩy đều phải nương tựa vào ruộng đất, thế nên vì thế mới có vua vàng (đất sắc vàng) để làm chủ ruộng đất tùy thời biến hóa.

Từ đấy, lại diễn thành tư tưởng ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Lại từ ngũ hành sinh khắc chế hóa mà lý giải biến thiên xã hội, lý giải tăng trưởng xã hội, lý giải những hiện tượng kỳ lạ bình, loạn của xã hội.

“Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” đó đó là trỏ vào chính sách cường thần đại tộc đã chết và thời đại đại chúng dân dã tham gia cơ quan ban ngành thường trực khởi đầu vậy. Vì màu xanh là mầu đứng vị trí số 1 những mầu đỏ, trắng, đen thuộc những hiện tượng kỳ lạ trên trời chỉ vào những cường thần đại tộc. Còn màu vàng thuần thuộc về ruộng đất chỉ vào nông dân. Trương Lỗ, Trương Giốc lấy trời vàng để làm tượng trưng cho sức mạnh mẽ và tự tin của nông dân.

Tuy vậy trời vàng bất quá cũng chỉ là tín ngưỡng do bọn Trương Lỗ, Trương Giốc đưa ra để quy tụ những vụ phản kháng lẻ tẻ của nông dân thành một vận động lớn lao mà thôi. Nguyên nhân chính làm cho nông dân nổi loạn đó đó là vì khuyết điểm của chính sách Hán Triều trên mặt kinh tế tài chính ruộng đất. Nhà Tần biến cải phép tỉnh điền thành canh điền và lực điền, vì không chịu nổi sưu cao thuế nặng nên nông dân ùa theo Hạng Võ, Lưu Bang. Lưu Bang thắng lợi liền vận dụng chánh sách giảm nhẹ tô thuế. Nhưng chánh sách này càng làm càng mất công hiệu vì bọn nhà giàu cứ xâm canh chiếm cứ thêm nhiều ruộng đất, trong lúc người nghèo lại không còn một tấc đất cắm dùi. Oán hận chồng chất lên. Vương Mãng tận dụng tình thế để đánh đổ nhà Hán thi hành chánh sách ruộng đất mới, đem ruộng đất thâu quy quốc hữu. Chánh sách của Vương Mãng quá đột ngột và mới mẻ, lại không còn giáo dục từ trước nên việc thi hành hỗn loạn, khiến hầu hết nổi lên phản đối. Hơn nữa Vương Mãng không nương cậy thực sự vào nông dân, mà chỉ nhờ thế lực ngoại thích mà tạo cuộc chính biến, thế nên vì thế mà sự nghiệp chẳng lâu dài được bao nhiêu. Tuy nhiên tư tưởng Vương Mãng không phải không còn ảnh hưởng sâu xa vào đám nông dân nghèo khổ. Vận động Hoàng Cân cũng chịu ràng buộc của Vương Mãng.

Tính chất huyền bí tu tiên, luyện phép tăng trưởng trong vận động Khăn Vàng đó đó là yếu tố phản công của đạo Hoàng Lão định nhờ vào tế tự phổ thông, nhờ vào thần quyền để đả kích tư tưởng Nho đạo. Cuộc tranh chấp ấy chẳng phải chỉ thấy ở loạn Khăn Vàng mà thôi. Trong Tam Quốc chí diễn nghĩa còn thấy hiện tượng kỳ lạ tranh chấp đó qua những việc:Tôn Sách giết Vu Cát, Tào Công đuổi Tả Từ, nghi ngờ Quản Lộ

Vận động Hoàng Cân mặc dầu to lớn, khí thế mạnh mẽ và tự tin, nhưng bọn Trương Giốc, Trương Lỗ đang không biết lãnh đạo vận động chuyển vào đấu tranh chính trị; họ nhìn chỉ thấy một mặt thần quyền bùa chú, cho nên vì thế mới gặp ít trận nhỏ, Lưu Quan Trương, Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đã đánh cho tập đoàn lớn lớn Khăn Vàng tan tác. Những phép lạ của bọn họ Trương bị máu chó, máu dê, phân lợn làm cho mất thiêng. Rút cục, chỉ từ độc trụi Trương Lỗ giữ được Hán Trung, sau cùng bị Thục và Ngụy thôn tính.

Vận động Hoàng Cân cũng như chính biến Vương Mãng đều mắc cùng một lỗi lầm tai hại là: manh tâm “gia thiên hạ” nghĩa là coi thiên hạ thao tác riêng nhà mình, của mấy người lãnh đạo trào lưu.

Qua thảm bại của vận động Khăn Vàng, người ta tìm thấy ở tư tưởng Đạo gia những gì? Nếu nó bị rơi vào bọn lưu manh, bọn trí thức thầy bùa, thầy ngải, thành viên chủ nghĩa, vô chính phủ nước nhà chủ nghĩa, bê trệ sinh sản, thiếu kỷ luật và thích nhàn chơi với những khẩu ngữ: Tuyệt thánh khí trí, tuyệt nhân khí nghĩa. Tự do. Phóng nhiệm. Trông hình thức bề ngoài chúng mang một hình thái đại cách mạng, nhưng bề trong chỉ là một tâm ý làm mưa làm gió vô tổ chức triển khai, phá hoại vô thiết kế. Do này mà không chống lại được với khối mạng lưới hệ thống tư tưởng quý tộc và chủ đất bấy giờ. Tư tưởng Đạo gia không hoàn toàn có thể lập thành một thế hệ phương pháp đấu tranh. Cho nên nó không hỗ trợ nổi vận động nông dân tạo thành lực lượng vững chãi.

3.7. Quân phiệt Đổng Trác

Kể từ đời Đông Hán, những châu mục đều phải có quyền tăng cường binh sĩ địa phương. Khi loạn Hoàng cân dấy lên thì những binh quyền địa phương lại càng tha hồ khoáng triển chẳng ai trấn áp

Sau khi bọn Thập Thường Thị dụ được Hà Tiến vào cung, sai phục binh giết, Viên Thiệu, Tào Tháo theo yểm hộ Hà Tiến bèn thả quân vào hoàng cung đuổi bắt sát hại bọn hoạn quan, triều đình đại loạn. Chính trị hoạn quan tất tạo ra tình trạng nhân tâm giải thể. Nhân tâm giải thể tức là nhân tâm nghĩ đến việc loạn. Để trong thời điểm tạm thời chấm hết loạn lạc đương nhiên một cơ quan ban ngành thường trực vũ lực mới xuất hiện. Chính quyền ấy là cơ quan ban ngành thường trực quân phiệt.

Trước tình hình chưa phân trắng đen, mỗi địa phương ở xa thì cắt đoạn với mệnh lệnh TW, ở gần thì nhăm nhe kéo quân về Kinh Đô, mượn tiếng phò giá, nhưng đó đó là để thừa cơ nắm trọn quyền bính. Trong số đó Đổng Trác được nhiều như mong ước hơn hết.

Đổng Trác tên chữ là Trọng Đỉnh xuất thân từ giai cấp địa chủ. Tính tình hào hoa, phóng đạt. Truyện ký có chép rằng: “Lúc Trác ở nơi điền dã thường yến ẩm với bọn hào súy, người Khương, người Hồ. Nhờ bọn hào súy ủng hộ mà khởi giá”. Khi có loạn Hoàng Cân, Đổng Trác được phái đi dẹp loạn, bị thua, sắp bị triều đình trị tội. Trác khôn khéo kết liên với bọn Thập Thường Thị, đút lót, luồn cúi bọn quyền quý và cao sang. Cho nên chẳng những Trác tránh khỏi tội mà chức vị của Trác còn được thăng lên vùn vụt; từ chức Trung Lang Tướng, Trác nhảy vọt thăng quan tiến chức Tiền Tướng quân Ngao Hương Hầu Tây Lương Thứ Sử, trong tay thống lĩnh hai mươi vạn quân Thái Hoàng Thái hậu lập nên.

Thời cơ làm cho Trác có dịp tranh cướp chánh quyền khởi tự Hà Tiến muốn dùng quân những trấn tiếp tay giết trừ phe phái hoạn quan. Nhưng cơ quan ban ngành thường trực vào tay Đổng Trác lại là nhờ thủ đoạn của Trác.

Đọc chuyện Tây Hán, chắc không còn ai quên bốn chữ mà Khoái Thông xúi Hàn Tín lật Lưu Bang: Tiệp túc tiên đăng (nhanh chân lên trước).

Đổng Trác đã ứng dụng được ý nghĩa nhanh chân của Khoái Thông vào thời cơ mình. Đổng Trác còn xử dụng nguyên tắc nhanh chân một cách linh động nữa là không vội vã. Kéo quân về trước nhất nhưng Trác biết tạm ngưng đợi cho bọn hoạn quan giết Hà Tiến rồi mới ra tay, chứ Trác không hỗ trợ Hà Tiến ngay.

Trước đây, Đổng Trác đã và đang tạo cho mình được thuở nào gian củng cố và khoáng trương binh sĩ bằng phương pháp lấy cớ biến loạn Khương Hồ từ chối hai lần triệu hồi của chánh phủ TW. Trác cứ đồn trú binh ở ngoài mà ngồi rình cục diện biến hóa, chờ tới giờ phút trái quả chín tới, Trác vào hứng đỡ chẳng phải hao tốn công lao là mấy.

Nhưng ngàn đời không mong muốn cho Trác, Trác chỉ có thủ đoạn chộp mau và đúng thời cơ, mà Trác lại không còn thủ đoạn để bảo vệ thời cơ đã nắm được. Trác trước đó chưa từng tham gia chính trị. Cho nên lúc bước vào lãnh vực chính trị, Trác đối đãi chính trị hoàn toàn và tuyệt đối bằng bạo lực. Nắm được cơ quan ban ngành thường trực rồi, Trác hòn đảo lộn toàn bộ cương kỷ một cách vô ích. Vô ích nhất là chủ trương phế lập bỏ Thiếu Đế, tôn Hiến Đế. Phế lập không phải để phục vụ một nhu yếu chính trị nào cả. Phế lập bất quá chỉ là kết quả mối tình cảm riêng của Trác riêng với Trần Lưu Vương

3.8. Những nguyên nhân thất bại

Tam Quốc Chí diễn nghĩa có nói đoạn: “Xa giá chưa đi được vài dặm, bỗng thấy tinh kỳ rợp đất, bụi bay mù trời, một đoàn binh mã sực kéo tới phía trước, bá quan đều thất sắc, vua cũng sợ hãi. Viên Thiệu vội thúc ngựa ra trước thốt hỏi: “Binh mã của người nào đây?” Từ dưới bóng một ngọn cờ thêu rực rỡ, một tướng bên kia thúc ngựa ra lớn tiếng hỏi: “Thiên Tử đâu?” Vua càng sợ không đủ can đảm lên tiếng. Trần Lưu Vương quất ngựa sấn ra nạt rằng: “Nhà ngươi là ai?” Tướng ấy đáp: “Thứ Sử Tây Lương Đổng Trác đây”. Trần Lưu Vương vặn ngay: “Anh tới đây bảo lãnh xa giá hay cướp xa giá?” Trác vội đáp: “Tới để hộ giá”. Vương hạch rằng: “đã tới hộ giá, vậy Thiên tử kia sao anh không xuống ngựa?” Trác lật đật xuống ngựa, khấu đầu cạnh bên đường, miệng tung hô vạn tuế. Trần Lưu Vương lấy lời ngọt ngào phủ úy Đổng Trác. Từ đầu chí cuối lời lẽ đàng hoàng. Trác thầm lấy làm lạ, sinh lòng khâm phục vô cùng. Và ý định phế Đế nọ lập Vương này nảy ra từ đó.

Đoạn trên xác nhận Trác tính chuyện phế lập hoàn toàn vì một chút ít tình cảm riêng tư. Sự phế lập đó đó là nhát cuốc đánh bật cái rễ uy tín của Trác đang nên phải ăn sâu xuống nữa, nó biến Đổng Trác từ một kẻ mang sứ mạng dẹp loạn thành một tên đầu sỏ nhiễu loạn. Phế lập đã đem lại cho Đổng Trác một kết quả vô cùng tai hại là việc Trác buộc phải thiên đô từ Lạc Dương về Tràng An. Thiên “xét về cái thế” ông Tô Triệt viết: “Trị thiên hạ, định sở thượng” (Muốn trị thiên hạ, trước hết phải nhận ra thiên hạ ưa chuộng điều gì?). Thời đại của Đổng Trác tư tưởng tôn quân còn rất mạnh, rất phổ cập, Đổng Trác động binh với danh nghĩa phò giá, mà hốt nhiên vô cớ tính chuyện phế lập tất yếu sẽ bị phản đối kịch liệt. Trước hết là những thành viên lẻ tẻ như Thứ Sử Kinh châu Đinh Nguyên, Lư Thực, Đinh Quản đứng trên danh nghĩa triều thần phản đối bằng lời nói, rồi đến Ngu Phu và Tào Tháo phản đối bằng phương pháp cho Trác ăn mũi dao sắc, rồi đến phản đối bằng sự khởi binh từ khắp những châu quận kéo về đánh Trác, do Tào Tháo khởi xướng.

Nguyên nhân thất bại thứ hai của Đổng Trác là không ước thúc được binh sĩ, để chúng thả cửa cướp bóc, hãm hiếp, rình rập đe dọa đời sống nhân dân; đôi lúc chính Trác là thủ phạm nữa. Thí dụ vụ Trác sai binh sĩ bổ vây giết hết đàn ông con trai, bắt hết phụ nữ và lấy hết của cải, đem hơn ngàn đầu người chở về thành, xẩy ra tại đám hội tháng hai vùng Dương Thành. Thậm chí Đổng Trác còn thích một lối thị oai phát nguyên tự tâm ý khát máu là ngay giữa đám vui sai mang tù nhân ra xẻo tai, cắt mũi, bỏ vạc dầu.

3.9. Luận về cơ quan ban ngành thường trực và cái chết của Đổng Trác

Nguyên nhân thất bại thứ ba của Đổng Trác là nền kinh tế thị trường tài chính phá sản, Đổng Trác không xử lý và xử lý được rủi ro không mong muốn tiềm ẩn tiềm ẩn cấp dưỡng trên tài chính. Biện pháp kinh tế tài chính, tài chính của Trác cũng đặt trên nguyên tắc quân sự chiến lược, mang vũ lực đi cướp tiền dân, cướp tiền của người sống chán rồi, Trác sai đào những mồ mả, lăng tẩm để cướp của người chết. Tiền của cướp được, Trác bỏ vào túi, lại sai đúc những tiền lớn thành tiền nhỏ để mang tăng gia số lượng tiền tệ. Tiền nhỏ của Trác đúc ra bị mất giá ngay, dân chúng đua nhau chợ đen, hóa vật tăng vọt lên. Cứ theo sử chép thì muốn mua một thúng thóc phải trả đến mấy vạn tiền của Trác. Dân chúng đói khổ ai oán vô cùng

Thấy tình trạng nguy ngập, Đổng Trác ve vãn thành phần trí thức, mời những nhân sĩ ra giúp việc. Nhưng khốn nỗi hai con mắt Trác chỉ hoàn toàn có thể nhận ra được bọn ngụy trí thức mà thôi, thành thử những người dân Trác dùng như: Thái Ung, Tuân Sảng, Hàn Phức v..v… hết thảy đều chỉ là bọn thư sinh, danh hão, đọc sách để tìm con gái đẹp, nhà vàng và ngàn hộc gạo chứ chẳng có người nào kinh quốc cả. Tờ hịch của Tào Tháo được những trấn hưởng ứng, chư hầu tụ hội chia ra làm 18 đạo kéo về Lạc Dương, Trận giao phong thứ nhất, tướng của Trác là Hoa Hùng bị Quan Vân Trường chém chết. Trận thứ hai Lã Bố bị thua ở Hổ lao quan. Thế của Trác đã trở nên rất là nguy ngập. Để cứu vãn, Đổng Trác sai Lý Thôi sang link với Tôn Kiên, ngỏ ý đem con gái mình gả cho con trai Tôn Kiên, hòng làm chia rẽ Liên quân miền đông. Nhưng kế cầu hôn của Trác bị thảm bại. Tôn Kiên nổi giận chửi mắng, Lý Thôi ôm đầu lủi thủi như con chuột trở về phục mệnh Đổng Trác

3.10. Thiên đô về Tràng An

Kế cầu hôn để phá liên quân miền đông không thành. Đổng Trác chỉ từ một đường thoát là rút về vị trí căn cứ của tớ. Trác bèn theo kế của Lý Nho, rời đô từ Lạc Dương về Tràng An. Chuyện rời đô, bình thoại của Mao Tôn Cương trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa có phê: “Vô cố nhi thiên Thiên Tử tắc tỉ ư mông trần. Vô đoan nhi thiên bách tính đắc đẳng ư lưu thoán” (nghĩa là: vô cớ mà rời chuyển Thiên Tử thì thực là chuyện mờ ám, vô cớ mà rời chuyển trăm họ thì cũng chẳng khác gì trốn chạy). Mấy chữ “vô cớ”, “mờ ám” và “chẳng khác gì” của ông Mao Tôn Cương không còn tính chất minh bạch thiết yếu cho việc phê phán một sự kiện chính trị. Thật ra chuyện thiên đô là một nhu yếu chính trị quan hệ sống chết riêng với Đổng Trác lúc ấy. Lạc Dương bị liên quân miền đông uy hiếp. Mặc dù lực lượng Đổng Trác còn mạnh, nhưng đã trót đi vào con phố danh bất chính, ngôn bất thuận rồi. Hơn nữa quân đội những châu quận phía đông thanh thế cũng chẳng thua kém, địch lại khó lòng. Thiên đô về Tràng An sẽn mang lại cho Đổng Trác nhiều lợi điểm khả dĩ lọt khỏi ngõ bí mà Trác hiện giờ đang bị đẩy vào. Thứ nhất: Trác là người Tây Lương, những người dân theo Trác thì toàn thị là dân Tây Lương, Tràng An với Tây Lương gần nhau. Thứ hai: có Hàm cốc quan là nơi hiểm yếu che chở cho Tràng An, quân phía Đông rất khó gì khắc phục được. Thứ ba: tránh đụng độ để chờ chư hầu nghi kỵ bất hòa với nhau.

Quả nhiên kế hoạch thiên đô của Đổng Trác thành công xuất sắc. Liên quân phía Đông thấy kẻ địch đã chạy trốn, lập tức trong hàng ngũ phát sinh xích míc vì tranh chấp quyền lợi. Sức mạnh như thác đổ của Liên quân nhạt dần, đến độ phật phờ lối “hàng tổng đánh kẻ cướp”.

Trong hồi thứ sáu, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể rằng: tới Lạc Dương, Viên Thiệu hạ lệnh cho quân chư hầu đóng trại không tiến nữa. Tào Tháo thấy vậy đến hỏi ngay Viên Thiệu: “Đổng Trác đã bỏ chạy về miền Tây, nay đó đó là lúc nên thừa thế đánh đuổi mà bắt nó, sao Bản Sơ lại đóng quân không động là ý thế nào?” Viên Thiệu nói: “Quân mã chư hầu đã mỏi mệt, tiến nữa không ích gì”. Tháo nói: “Giặc Đổng đốt rụi hoàng cung, hiếp bức Thiên Tử mang đi, thiên hạ rối loạn ngơ ngác không biết theo ai, giờ đây đúng là lúc chỉ việc đánh một trận nữa là bình được thiên hạ. Cớ sao chư hầu lại hồ nghi không tiến?” Chư hầu nghe Tháo nói ai cũng bàn ngang rằng: “Chưa nên kinh động”. Tào Tháo giận tím người, nói một mình: “Không thể mưu việc với bọn trẻ con này được”. Nói rồi Tháo tự dẫn một vạn quân cùng những bộ tướng suốt ngày đêm đuổi theo đánh Đổng Trác.

Giả sử, nếu Liên quân phía Đông đừng có một chủ súy vô mưu như Viên Thiệu, tự ổn định được xích míc nội bộ, mang quân đánh dấn đi thì chắc như đinh lực lượng vô kỷ luật của Đổng Trác không còn đất mà chôn, dù Tây Lương hay cửa Hàm Cốc cũng không che chở cho Đổng Trác nổi. Trong đám người lãnh đạo Liên quân phía Đông, có độc một mình Tào Tháo là người đại lược, biết nhìn xa thấy rộng mà thôi. Rút lại cuộc tụ hội thảo chiến lược phạt gian tặc thành ra chuyện đầu voi đuôi chuột. Kết thúc bằng việc Tôn Kiên đi nhặt nhạnh xương cốt và đắp mồ mả đã biết thành Đổng Trác đào bới.

3.11. Cái chết của Đổng Trác

Sau khi rút về Tràng An, Đổng Trác tự biết đang không còn thế tung hoành nên tính kế thưởng thức. Trác cho xây ở My huyện một hoàng cung riêng cho mình, tuyển lựa 800 thiếu nữ thanh tân nhốt vào cung, tích trữ vàng bạc gấm vóc, lại cho làm những kho chứa lương thực đủ ăn trong 20 năm. Trác vẫn thường nói: “sự thành hùng cứ thiên hạ, sự bất thành thủ thử dã túc dĩ chung thân liễu”. (thành ra thì hùng cứ cả thiên hạ, không xong thì giữ chặt nơi này cũng khá được hết đời). Trác tin vào thế hiểm yếu, vào lương thực tích trữ. Nhưng Trác quên rằng kẻ giết Trác đó đó là Trác vậy, là cái đậm cá tính gian ác, hẹp hòi, ích kỷ của Trác. Do đậm cá tính đó, Trác đã tự mình tạo nhận cho thủ đoạn Vương Doãn, Lã Bố. Trong chính sử tuy không thấy nói tới liên hoàn kế và Điêu Thuyền, nhưng Vương Doãn và Lã Bố cũng vẫn là hai vai chủ gốc trong vụ giết Đổng Trác. Sử chỉ chép: “Lã Bố tư thông với tỳ thị của Trác, sợ việc bại lộ trong tâm không yên. Tư Đồ Vương Doãn thấy Bố vũ dũng nên rất là hậu đãi”. Phải chăng nhà văn La quán Trung đã tiểu thuyết hóa tên thị tỳ thành ra Điêu Thuyền, tưởng tượng ra liên hoàn kế cho câu truyện Trác thêm phần kỳ thú?

Tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã khéo tưởng tượng ra nàng Điêu Thuyền diễm lệ.

Một cành gió lả hoa mềm,

Mùi hương ngào ngạt đầy thềm vẻ Xuân.

Rồi mượn hương sắc mỹ nhân mà lột hết cái chí khí hẹp hòi cùng tâm trạng độc đoán của Đổng Trác ra lời nói, như đoạn: Sau khi Đổng Trác nghe Điêu Thuyền mếu máo phản đối việc đem mình gả cho Lã Bố theo kế hoạch của Lý Nho, Trác mủi lòng bèn thay đổi ý kiến.

Lý Nho thấy vậy chạy vào thưa:

– Xin Thái Sư đừng khiến cho một người đàn bà mê hoặc như vậy.

Trác biến sắc mặt mắng Nho rằng:

– Thế vợ mày, mày có chịu đem cho thằng Lã Bố không? Thôi việc Điêu Thuyền cấm không được bàn đến nữa. Nói thêm ta chém đầu.

Những lời đối đáp của bọn cao cấp ngoan cố vẫn thường hữu lý theo cái lối “đức ông cưỡi voi” như vậy. Nếu họ đi hành quân mà có người nhắc họ lưu ý sợ bị đánh tập hậu, họ sẽ chẳng tâm ý gì để vấn đáp ngay rằng: “bị tập hậu thì ta quay trở lại, địch còn đánh tập hậu vào đâu?”

* * *

Âm mưu link với Lã Bố để giết Đổng Trác của quan Tư Đồ Vương Doãn nẩy mầm từ bữa Trác thiết tiệc bá quan trong Tỉnh đài, chém quan Tư Không Trương Ôn ngay giữa bàn tiệc để khủng bố. Việc này chứng tỏ ý thức chính trị của Trác đã hoàn toàn khô cạn. Đổng Trác chỉ trông vào sự khủng bố và võ lực của Lã Bố, một tên trùm phản trắc để chống lại những thủ đoạn phản bội mình. César chịu nhát dao ở đầu cuối của Brutus, ông ta tỉnh ngộ ngay và nói với Brutus rằng: “nếu cả Brutus cũng giết ta thì ta phải chết”. Đổng Trác ngu si ngoan cố cho tới chết. Chẳng thế mà hơn 100 vũ sĩ theo lời Vương Doãn hô to: “Phản tặc đã tới đó” và cầm giáo đâm như mưa vào mình Đổng Trác, thế mà y vẫn chưa tỉnh ngộ còn vội kêu lớn: “Phụng Tiên con đâu”. Chính ông con quý báu này đã tặng cho Trác một nhát kích trúng giữa yết hầu kết liễu đời Trác

3.12. Điêu Thuyền và cái chết của Đổng Trác

Trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa, La quán Trung dành riêng ra hồi thứ tám và nửa hồi thứ chín để đặc biệt quan trọng tiểu thuyết hóa cái chết của Đổng Trác, qua những câu văn vần mở đầu cho từng hồi: Kế liên hoàn Vương tư Đồ khéo dụng, Đình Phượng Nghi Đổng thừa tướng đâm khùng, và Trừ hung bạo, Lã Bố giúp Tư Đồ.

Từ kế liên hoàn đến việc làm cho Đổng Trác điên khùng mắng đuổi và phóng kích định giết con nuôi, rồi nghĩa tử Lã Bố giúp Tư Đồ Vương Doãn giết Đổng Trác nhất nhất đều do Điêu Thuyền gây ra cả.

Nhưng trong chính sử không thấy mang tên Điêu Thuyền bao giờ. Các sách khác cùng bao chuyện truyền kỳ, cổ tích của đại chúng cũng chẳng nhắc tới về tung tích cũng như về thân thế nàng. Vậy thì Điêu Thuyền phải chăng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết do tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa nặn ra.

Nhân vật Điêu Thuyền xuất hiện là tác dụng kỳ thú mê hoặc của văn học nhằm mục đích xử lý và xử lý mối vướng mắc bị thất lạc trong chính sử. Mối vướng mắc đó là nguyên nhân xích míc nội bộ tập đoàn lớn lớn quân phiệt Đổng Trác.

Như toàn bộ chúng ta đã rõ, cái chết của Đổng Trác là kết quả của cuộc tranh chấp một mất một còn giữa nhóm quan lại cựu trào Hán Đại với phe phái Đổng Trác. Nhóm quan lại cựu trào cảm thấy tính mệnh và quyền lợi của tớ đã biết thành rình rập đe dọa cực độ sau vụ Trương Ôn.

Một hôm, Trác ở sảnh đài, hai bên bách quan ngồi sắp hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần thì Lã Bố đi tắt vào, ghé tai Đổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng: à ra thế! Nói rồi, sai Lã Bố lôi quan Tư Không tên là Trương Ôn cũng đang ngồi ăn ở tiệc đem xuống dưới thềm. Các quan không biết đầu đuôi ra làm sao đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một mâm đỏ, giữa để đầu của Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía.

Sự khủng bố trắng trợn báo hiệu giờ phút không thể dung thứ nhau được nữa. Đại diện phái quan lại cựu trào lúc đó là Vương Doãn, Vương Doãn hôm ấy về đến phủ, nghĩ lại những việc trông thấy trong buổi tiệc, ngồi đứng không yên. Đến đêm khuya trăng sáng vằng vặc chống gậy đi ra vườn sau, đứng cạnh bên bụi đồ mi ngửng mặt lên trời rỏ nước mắt khóc.

Với Vương Doãn thì cái thế phải giết Đổng Trác là tất yếu rồi, nhưng còn một điều chưa tồn tại cách gì xử lý và xử lý là Lã Bố. Ai đến gần Đổng Trác ngoài Lã Bố? Lã Bố mà phụ lực cho Đổng Trác bằng sức vóc muôn người không địch của y, thì việc giết Đổng Trác thật khó lòng mưu toan lắm. Chính vì điểm ấy Vương Doãn lo lắng không yên.

Vậy, việc giết Đổng Trác phải khởi đầu bằng kế hoạch ly gián Trác với Bố. Kết quả Lã Bố đâm chết Đổng Trác. Kế ly gián Bố với Đổng Trác thế nào, nó đặt trên xung đột tư tưởng, chủ trương? Hay chỉ là một kế mỹ nhân? Xét cho kỹ về tư cách Lã Bố và Đổng Trác thì mặc dầu toàn bộ chúng ta không còn sử liệu về Điêu Thuyền, nhưng kế mỹ nhân là đắc sách nhất, hợp lý nhất. Bởi thế tên họ Điêu Thuyền hoàn toàn có thể nói rằng do nhà văn La Quán Trung tạo ra và cũng hoàn toàn có thể nói rằng liên hoàn kế là thật. Nếu ta nhận rằng: Mũi nàng Cléopâtre chỉ dài thêm chút nữa thôi, bộ mặt toàn thế giới sẽ khác hoàn toàn. Thì chuyện Điêu Thuyền với vẻ đẹp

Mây bay một áng điểm thềm hoa,

Mày ngài gợi khách sầu man mác,

Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha.

Khả dĩ phá đổ quyền thế chính trị của Đổng Trác, thiết tưởng chẳng có chi hoang đường cả. Page 6

Vũ Tài Lục – Việt Chiến xuất bản 1967

Phần tử trí thức – Đạo đức và chính trị – Những trận chiến tranh quyết định hành động vận mạng Tam Quốc – Chính sử và Diễn Nghĩa – Cách đọc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa – Luận về những nhân vật – Quy luật lịch sử.

LỜI NÓI ĐẦU

Trong lịch sử, những thời kỳ quá độ đều là thời kỳ cực trọng yếu, ảnh hưởng vững mạnh đến động vị trí hướng của Quốc gia, Dân tộc và Xã hội. Thời kỳ Tam-quốc là thuở nào kỳ quá độ, cũng như Hán Sở tranh hùng là thời kỳ quá độ từ Tần qua nhà Hán, Xuân thu Chiến quốc là thời kỳ quá độ từ Chu qua Tần.

Thời kỳ quá độ thì bao giờ tranh chấp cũng rất quyết liệt và chính trị tính thật cao. Vì thế ông Kim Thánh Thán mới đề trong nguyên tự của cục Tam quốc mấy chữ: Tam quốc giả nãi cổ kim tranh thiên hạ chi nhất đại kỳ cục (Tam quốc là một cuộc tranh chấp chính trị kỳ diệu)

Do tính chất điển hình văn hóa truyền thống Trung quốc, do tính chất kỳ diệu của tranh chấp chính trị, thêm vào đấy bút pháp thần kỳ của nhà văn La Quán Trung, pho chuyện Tam quốc chí đang trở thành một tác phẩm văn học phổ cập nhất của Trung quốc. Các giai tầng xã hội Tính từ lúc thành phần trí thức, đến quí tộc, thường dân, nông dân, từ vị tuổi tác đến đàn bà con trẻ chẳng ai là không biết tên Lưu Bị, Tào Tháo, Khổng Minh. Không những Tam quốc chí diễn nghĩa phổ cập trong nhân dân Trung quốc, nó còn phổ cập trong dân gian những nước chịu ràng buộc văn hóa truyền thống Trung quốc nữa. Thứ nhất là người Việt toàn bộ chúng ta, nói Tam quốc và “nhấm nháp” thú vị Tam quốc hầu như rất quen với toàn bộ và thuộc đủ tầng lớp. Các trẻ con ta vui chơi thường hát vè rằng:

“Bồ cu bồ những

Tha rác lên cây,

Gió đánh lung lay,

Là vua Cao tổ.

Những người mặt rỗ,

Là ông Tiêu Hà,

Nước chảy qua đường,

Là dượng Tào Tháo

Đánh bạc cố áo,

Là anh Trần Bình.

Nhà văn Nam Cao tả trong một đoản thiên tiểu thuyết của ông, hình tượng điển hình nhất để nói lên cái “thú vị chi cực” của Tam quốc riêng với những người Việt. Có người xem xong một đoạn Tam quốc, khoái quá anh ta đã vỗ đùi đánh đét mà chửi đổng một câu” Tiên sư cái thằng Tào Tháo!” để tỏ lòng phục tài của một chính trị gia lỗi lạc.

Có điều không mong muốn, hầu hết toàn bộ chúng ta chỉ đem Tam quốc để tán trà dư tửu hậu mà thôi. Phải chăng thói quen ấy đã phục vụ với tinh thần của bài từ mở đầu qua mấy câu ca dao:

Nhất hồ trọc tửu hỷ tương phùng

Cổ kim đa thiểu sự.

Đô phó tiếu đàm trung.

Tạm dịch:

Gặp nhau hồ rượu đầy vơi,

Xưa nay bao nhiêu việc,

Phó mặc cuộc nơi cười.

Nhưng chuyện Tam quốc chí còn mang một giá trị rất rộng về tư tưởng và quyền thuật chính trị. Người phương Đông đọc Tam quốc, bàn luận về Tam quốc cũng cần phải thiết như người phương Tây đọc và bàn Le Prince, l’Etat et la révolution. Chúng ta hoàn toàn có thể tỉa rút từ Tam quốc nhiều kinh nghiệm tay nghề, nhiều qui luật chính trị. Sự phong phú kinh nghiệm tay nghề, phong phú qui luật chính trị chứa chất trong pho Tam quốc càng làm nổi trội cái tài hoa của Đông phương, đã tan biến được ý thức về chính trị thâm thúy và rắn chắc vào một trong những hình thức nhẹ nhàng giản dị: thông tục tiểu thuyết. Dưới hình thức thông tục tiểu thuyết, Tam quốc chí diễn nghĩa không riêng gì có làm cho dễ hiểu, hứng thú, còn gây cho những người dân đọc một lực tưởng tượng dồi dào. Dễ hiểu, hứng thú, tưởng tượng dồi dào là những yêu cầu cơ bản mà Tứ Thư, Ngũ kinh hoặc Nhị thập tứ sử, Thông giám, Cương giám, không hoàn toàn có thể phục vụ nổi.

Tuy nhiên, Tam quốc chí diễn nghĩa cũng không khỏi chịu sự câu thúc của tư tưởng Đạo thống chính thống cho nên vì thế vẫn thấy xuất hiện không ít thiên kiến.

Ngoài ra Tam quốc còn một điểm lưu ý nữa: dùng thú vị tiểu thuyết lôi cuốn fan hâm mộ vào chỗ tế nhị của tư tưởng quân sự chiến lược. Trong Tam quốc, “binh pháp” Tôn Vũ tử hầu hết được đem chuyển từ sắc thái tư tưởng trừu tượng thành những bức tranh rõ ràng, linh động. Cho nên phàm người nào muốn tìm hiểu Tôn Tử binh pháp mà không đọc Tam quốc, không suy tư về những chiến trận trong Tam quốc, thiết nghĩ thật là một điều khiếm khuyết vô cùng. Bởi vì nếu xét lại tự sự mặt trận Tam quốc, ai cũng phải công nhận, tư tưởng Tôn Vũ Tử như đã hòa vào máu đỏ để chảy trong huyết mạch nhà văn La Quán Trung.

Tóm lại: pho Tam quốc chí diễn nghĩa xứng danh là một tác phẩm gối đầu giường của mọi người. Tán chuyện Tam quốc là một chiếc khoái vô tuy nhiên. Bàn luận trang trọng chính trị, nhân vật, chiến sự Tam quốc là một nhu yếu rất thiết thực, thứ nhất riêng với thời thế “Tam phân ngũ liệt” của toàn bộ chúng ta giờ đây.Page 7

Ông Cao Nho danh sĩ đời nhà Minh phê phán Tam quốc chí diễn nghĩa có một đoạn như sau:

– Góp nhặt tài liệu chính sử, sắp xếp lại những chuyện, xác nhận bằng lời văn, làm rõ tâm ý quần chúng, không thô lậu quê mùa, không hoàn toàn bịa đặt, dễ xem dễ hiểu, không phải lời văn quá vắn tắt, trở ngại vất vả của những nhà viết sử cổ xưa, không còn giọng khôi hài nhạt nhẽo của người mù kể truyện rong, chép chuyện trăm năm, bao quát muôn việc.

Sở dĩ có hai chữ diễn nghĩa, hình như dụng ý của nhà văn là để chống riêng với chính sử, La Quán Trung muốn quảng đại quần chúng cũng luôn có thể có quyền hiểu lịch sử.

Toàn bộ lịch sử trải qua thời kỳ tiền Tam quốc, thời kỳ chính thức xây dựng ba nước Ngô, Ngụy, Thục cho tới ngày Tư mã Viêm thống nhất toàn quốc hình thành nhà Tấn dài ước chừng non thế kỷ.

Loạn Khăn vàng khởi sự vào năm đầu niên hiệu Trung bình đời Đông Hán Linh Đế, tức là năm 184 công lịch. Đến năm 280 công lịch nhà Tấn diệt Ngô thống nhất. Lỗ Tấn khi bàn về cuốn Tam quốc chí diễn nghĩa cũng nói: “Gồm đầu đuôi việc 97 năm”.

Khoảng thời hạn ngót một trăm năm lịch sử khả dĩ phân thành ba quy trình hầu hết.

2.1. Giai đoạn tiền Tam quốc từ 184 đến 220.

Loạn Khăn vàng khởi lên vào giữa lúc thời kỳ thối nát nhất của nền chính trị cuối nhà Hán. Thanh thế Khăn vàng ban đầu mạnh như mây đùn gió nổi, nhưng vì Đk lịch sử hạn chế một phần, lãnh đạo lầm lỡ một phần, nên loạn Khăn vàng sau nhiều thất bại liên tục bị dẹp tan. Để mua sự tiêu diệt của trào lưu Khăn vàng, cơ quan ban ngành thường trực Đông Hán đã phải trả một giá rất đắt là: tạo ra sự lung lay và suy yếu tột độ của chính mình để ở đầu cuối bước tới sụp đổ. Chính quyền nhà Hán lung lay suy yếu, chính sách TW tập quyền tan vỡ, khiến thế lực địa phương mạnh lên, mỗi kẻ xưng hùng xưng bá một nơi.

Năm 189, Đổng Trác tiến quân vào Lạc Dương. Năm 190 liên quân miền Đông do Viên Thiệu đứng đầu, do Tào Tháo tổ chức triển khai tiến đánh Đổng Trác. Trong quy trình xây dựng liên quân, Viên Thiệu, Viên Thuật tận dụng tăng cường thế lực, Thiệu thôn tính thêm ba châu Thanh, Tinh, U. Thời kỳ loạn kiêu binh Lý Thôi – Quách Dĩ, Tào Tháo nhờ Chu Tuấn tiến cử, được cử phá giặc Sơn Đông thống nhất một địa phương to lớn, xây dựng thế lực cho mình.

Từ 197 đến 207 là thời hạn trận chiến tranh quyết liệt giữa hai lực lượng Viên Thiệu và Tào Tháo. Sau khi dẹp thế lực Viên Thiệu, Tào Tháo đề quân Nam tiến, định vượt qua sông Trường giang đánh đổ Tôn Quyền, thực thi chí lớn thống nhất Nam Bắc. Nhưng mưu đồ này thất bại vì trận Xích Bích, vì sự phối hợp lực lượng Tôn Quyền với Lưu Bị.

2.2. Giai đoạn xây dựng chính thức thế chân vạc.

Nhờ thắng lợi Xích Bích, năm 209 Lưu Bị lĩnh chức Mục Kinh Châu từ từ chiếm Thủ Đô, năm 219 tự xưng Vua Hán Trung.

Năm 220 Tào Tháo chết, con là Tào Phi phế bỏ vua Hán lập nước Ngụy. Năm 222 Tôn Quyền đổi niên hiệu là Hoàng Vũ, năm 229 xưng Đế ở Giang Đông đặt tên nước là Ngô.

2.3. Giai đoạn ba nước tiêu diệt lẫn nhau và nhà Tấn thống nhất.

Quan Công nhân cơ Bắc tiến lấn chiếm Phàn Thành, Kinh Tương của Ngụy. Ngụy sẽ khốn đốn to nếu không nhờ Tôn Quyền đánh thọc vào hậu phương Thục cướp Giang Lăng giết chết Quan Vũ. Hành động này gây thành xích míc một mất một còn giữa Ngô và Thục.

Năm 222 Lưu Bị cử đại binh đi đánh Ngô trả thù cho Quan Vũ. Vì sai lầm không mong muốn trên quân sự chiến lược, Lưu Bị thảm bại trong trận Hào Đình làm cho quá nửa lực lượng thiệt hại. Lưu Bị chạy về Vĩnh Ân ốm chết, Lưu Thiện nối ngôi, Gia Cát Lượng phụ chính, Phục hồi chủ trương liên hiệp Ngô, Thục đánh Ngụy. Năm 227 Gia cát Lượng mở chiến dịch Bắc phạt thứ nhất. Năm 234 là chiến dịch Bắc phạt ở đầu cuối của đời Gia Cát Lượng. Ông chết ngay nơi doanh trại Ngũ Trượng Nguyên.

Gia cát Lượng chết, quyền bính vào tay Khương Duy, tiếp tục đánh Ngụy từ thời điểm năm 249 đến 262, ra quân đến tám lần đều bị thua. Mùa xuân 263, Tư Mã Chiêu phái Đặng Ngải, Chung Hội, Gia Cát Tự chia ba đường tiến công Thục. Lưu Thiện đầu hàng. Thục Hán diệt vong từ đó.

Năm 265, Tư Mã Chiêu chết, con là Tư mã Viêm lật Tào Hoán chiếm ngôi, xưng là nhà Tấn, Ngụy diệt vong từ đó.

Năm 279, Tư mã Viêm đem 20 vạn quân phân thành 6 đường tiến đánh Ngô, vua Ngô là Tào (Tôn?) Hạo đầu hàng. Ngô diệt vong. Thiên hạ chia ba nay quy vào một trong những mối.

2.4. Địa lý đời Hậu Hán

Nhiều người đọc chuyện Tam Quốc thường bỏ sót, không chịu tìm hiểu yếu tố địa lý. Sót nó làm cho ta thưởng thức kém khá đầy đủ và thâm thúy. Như thế, tìm hiểu địa lý đời Hậu Hán trở nên một nhu yếu của toàn thể fan hâm mộ của tác phẩm quý báu ấy. Nó mang lại cho toàn bộ chúng ta nhiều vũ khí tốt cho việc nhận xét, phân tích, tóm tắt chia đoạn

Hành chính Đông Hán khu hoạch ra làm 13 châu, 12 châu mỗi châu một Thích sử coi sóc, còn một châu đặt dưới chính sách Tư lệ hiệu úy. Đối chiếu với map ngày này như sau:

* U Châu: bao quát bắc bộ Nhiệt hà và tỉnh Hà Bắc. Hai tỉnh Liêu, Ninh, bắc bộ bán hòn đảo Triều Tiên (Triều Tiên vào đời Hán cũng là một Quận, Huyện của Trung Quốc)

* Ký Châu: thuộc nam bộ tỉnh Hà Bắc

* Tinh châu: gồm phần lớn tỉnh Sơn Tây, bắc bộ tỉnh Thiểm Tây và một bộ phận hai tỉnh Sát cáp Nhĩ, Tuy Viễn.

* Lương châu: bao quát hai tỉnh Ninh Hạ và Thiểm Tây

* Thanh Châu: ở bộ phận hướng đông bắc tỉnh Sơn Đông

* Duyện Châu: gồm tây bộ tỉnh Sơn Đông và hướng đông bắc bộ tỉnh Hà Nam

* Dự Châu: gồm đông nam bộ tỉnh Hà Nam và phía bắc An Huy

* Từ Châu: gồm đông nam bộ tỉnh Sơn Đông và phía Bắc Giang Tô

* Dương Châu: gồm Giang Nam ở An Huy, Giang Tô và ba tỉnh Giang Tây, Triết Giang, Phúc Kiến

* Kinh Châu: gồm tây-nam bộ tỉnh Hà Nam và hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc

* Ích Châu: gồm nam bộ tỉnh Thiểm Tây và hai tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam

* Giao châu: gồm hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc nước Việt Nam giờ đây

* Tư lệ hiệu úy: gồm tây-bắc bộ tỉnh Hà Nam. Tây nam bộ tỉnh Sơn Tây, trung bộ tỉnh Thiểm Tây

Cấp bậc hành chính thấp nhất dưới Hán triều là Huyện. Thấp hơn Huyện thì không hề quan trị nữa mà việc làm đều đặt vào quyền điều khiển và tinh chỉnh của những cơ quan tự trị. Trên Huyện đến Quận, trường hợp Quận quá rộng thì gọi là Châu. Mỗi Châu đặt một vị Thứ Sử để làm giám quan xem xét những việc của Thái Thú đứng đầu Quận

(Nên biết rằng, trước nhà Hán, cty quận là một nước)

Ban đầu Thứ Sử là chức giám quan và Thái Thú là chức hành chánh quan còn phân biệt rõ ràng. Dần dần nhà Hán mỗi ngày một suy sụp, Thứ Sử và Thái thú trở thành một vị. Đến thời kỳ Đông Hán, nhân vì loạn lạc, vị thế Thứ Sử và Thái Thú được quyền tuyệt đối ở địa phương và đổi thành Châu Mục. Do đó mới phát sinh ra hiện tượng kỳ lạ tranh quyền giữa chính phủ nước nhà TW và địa phương. Địa phương phản kháng TW rồi tự ý hùng cứ một cõi. Sở dĩ cơ quan ban ngành thường trực TW yếu thế là vì ngay Đông Hán, đời vua Hoàn Đế, Linh Đế, tình trạng thối nát đã tới cực điểm. Nhà vua công khai minh bạch đem quan tước ra mua và bán. Tước Tam Công giá 10 triệu tiền. Theo sử chép, hồi ấy có một tên hoạn quan là Hầu Lãm cướp hàng vạn khoảng chừng ruộng, tên ngoại tộc Lương Ký gia tài ước đến 3 tỷ tiền. Họ hàng thân thích của toàn bộ khối mạng lưới hệ thống lại trị rải rác khắp những Châu, Quận, vòi vĩnh và vơ vét, hút máu dân chúng.Page 8

Truyện Tam quốc được khai đoan bằng một câu: “Phù thiên hạ đại thế, phân cửu tất hợp, hợp cửu tất phân”. (Thế lớn thiên hạ, chia lâu rồi lại hợp, hợp lâu lại rồi chia).

Đó là một qui luật lịch sử, một đoạn nhân quả tiếp nối để thúc đẩy lịch sử chuyển mình, diễn tiến. Nếu nghĩ rằng chia hay hợp chẳng qua là tự nhiên do mệnh trời xếp đặt, thì hiện tượng kỳ lạ phân hợp của lịch sử trở nên trống rỗng (và Tam quốc cũng mất hết ý nghĩa)

Nhận định lịch sử bằng ý niệm “mệnh trời” không khác gì ý muốn “trói voi bỏ rọ”. Nhận định ấy tất sinh sản ra những lý luận không chính tắc, đôi lúc tức cười nữa. Tỉ dụ cuốn Tân biên Ngũ đại Lương sử Bình Thoại ghi chép một chuyện cũ về Tam quốc như sau:

“Khi Lưu Bang thắng được Hạng Vũ rồi, nhân có bụng nghi những công thần nên giết Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bá. Cả ba liền kiện Lưu Bang trên Thiên đình. Trời bèn cho Hàn Tín thác sinh làm Tào Tháo, Bành Việt thác sinh làm Tôn Quyền, Anh Bá thác sinh làm Lưu Bị để trả thù xâu xé cướp lại cơ nghiệp của Hán cao Tổ. Bởi vậy mới thành Tam quốc”

Mục đính cố sự trên được bịa nêu lên nhằm mục đích tác dụng tôn vinh thuyết oán thù báo ứng. Điểm đáng để ý quan tâm là: nó gây một ảnh hưởng không nhỏ và được lưu truyền rất rộng tự do trong đại chúng.

Lịch sử là tổng hợp sinh hoạt quả đât. Luận đoán lịch sử đương nhiên không thể đặt dưới chiều ánh sáng chân lý siêu việt ngoại tại. Lịch sử phải được phê phán dưới chiều ánh sáng chân lý nhân sinh nội tại.

Theo chân lý nội tại nhân sinh, thì những bước đi của lịch sử không bao giờ độc lập tự tồn, mà chúng phải chịu qui luật tiếp nối, nhân quả. Ở đây có những tính phổ cập, tính hiệp hội. Phân hay hợp mỗi quy trình đều mang tác dụng và trách nhiệm riêng. Bây giờ nói về hiện tượng kỳ lạ “chia ba chân vạc” của thời đại Tam quốc, toàn bộ chúng ta hoàn toàn có thể xác lập như sau:

– Nguyên nhân trực tiếp là: triều chính Hán mạt thối nát.

– Nguyên nhân gián tiếp là: Những yếu tố còn chưa xong của thời đại Xuân thu Chiến quốc.

– Nhiệm vụ của yếu tố chia cắt là tiếp tục công cuộc thống nhất Hán triều bỏ dở.

– Tác dụng của “tam phân” là thống nhất từng mảnh rồi mới thống nhất toàn bộ.

Có tìm hiểu minh bạch “toàn cảnh lịch sử thời đại” thì mới phát hiện được thực ra Tam quốc, mới đặt được TT hướng dẫn bàn luận về những ý niệm chính trị, chiến sự và nhân vật. Dưới đây chúng tôi xin nêu ít luận cứ:

1.1. Từ tám trăm đến mười.

Xu hướng thống nhất khởi đầu dâng cao lên Tính từ lúc đời vua Trụ. Nhưng triều chính của vua Trụ quá thối nát không thể lãnh đạo được Xu thế đó. Thừa cơ, nhà Chu liền khởi nghiệp tự lập làm vua. Văn Vương mất, Vũ Vương kế vị được hai năm thì quyết định hành động thanh toán triều đại nhà Ân mà Trụ vương làm đại biểu. Vũ Vương hội tám trăm chư hầu ở Mạnh Tân, sau trận giáp chiến tại Mục Dã, nhà Ân mất hẳn.

Để phục vụ với nhu yếu thống nhất, nhà Tây Chu đã thôn tính thật nhiều bộ lạc lẻ tẻ rời rạc, đồng thời kiến lập nền móng một trật tự TT, một cốt cách văn hóa truyền thống TT cho Trung quốc.

Tính đến lúc nhà Chu chuyển từ Tây sang Đông được gọi là Đông Chu, số chư hầu chỉ từ lại hai trăm. Nhưng mạnh nhất và ảnh hưởng đến cục diện vẻn vẹn có mười nước.

1.2. Giai cấp phép mới.

Đông Chu được lập 49 năm, tranh chấp thôn tính biến tính chất, trở nên gay go quyết liệt hơn, vì quy mô cùng lực lượng tranh chấp đã lớn lên thật nhiều. Sự đối đầu đối đầu Một trong những liệt quốc tạo thành sự hưng thịnh của học thuật. Thế hệ tư tưởng nhờ những thế lực rất khác nhau bảo trợ, nhờ hiện tượng kỳ lạ mỗi ngày một phức tạp của xã hội vun tưới, đã trổ bông rườm rà, cỏ lạ hoa thơm. CÙng một lúc với việc hưng thịnh của học thuật là yếu tố xây dựng riêng không liên quan gì đến nhau một giai cấp phép mới: giai cấp sĩ (thành phần trí thức).

1.3. Bình dân tham chính.

Bản thân thời đại Xuân thu bao quát sau 242 năm, ở đầu cuối chỉ từ lại bẩy nước tồn tại là: Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần. Cuộc tranh hùng giữa bẩy nước, lịch sử ghi lại dưới một tên khác: thời đại Chiến quốc.

Hai thời đại Xuân thu và Chiến quốc mang một hiện tượng kỳ lạ rực rỡ là: Bình dân tham gia cơ quan ban ngành thường trực. Về hiện tượng kỳ lạ này ông Triệu Dực viết như sau:

Từ cổ, chư hầu tự quản trị và vận hành nước mình, khanh đại phu truyền con, truyền cháu làm quan trị dân. Dưới chính sách “cường thần đại tộc”, dân chúng bị ngược đãi điêu linh, loạn ly không dứt. Tranh chấp đến Chiến quốc thì phạm vi bành trướng to rộng quá. Khanh đại phu bị chìm ngập, lãnh đạo chính trị không thể theo con phố thế khanh, thế hầu được nữa. Do đó mới xuất hiện những chính khách như: Phạm Thư, Sái Trạch, Tô Tần, Trương Nghi, những võ tướng như Tôn Tẫn, Bạch Khởi, Nhạc Nghị, Liêm Pha, Vương Tiễn. Và xa xưa nữa như: Nịnh Thích, Bá Lý Hề. Những người này hết thẩy đều áo vải chân trắng.

Kết cục tranh chấp Thất hùng: nhà Tần kiêm tính sáu nước Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy hình thành Tần triều, chấm hết thời đại Chiến quốc kiến lập cơ sở thống nhất thứ nhất.

1.4. Ai diệt lục quốc?

Nhà Tần sở dĩ dựng lên là vì phục vụ với nhu yếu thống nhất, Tần kéo được về phía mình một lực lượng to tát: nhân tâm quy hướng. Ông Đỗ Mục có một lời phê rất đúng: “Không ai diệt lục quốc cả, chỉ lục quốc tự diệt mà thôi”. Bất quá vũ lực và thủ đoạn của Tần triều đang không nghĩ thế. Khi thống nhất rồi, họ liền cho vũ lực là vạn năng, thủ đoạn là vạn năng.

Tần triều không tìm tới một phương thức lãnh đạo thích phù thích hợp với tình trạng mới, mà chỉ đem phương thức “Bá” nhỏ hẹp để thống trị đại thiên hạ. Tần Thủy Hoàng hạ lệnh đốt sách, nhằm mục đích qui hết tư tưởng vào một trong những mối. Tần chỉ đem pháp chính ra mong làm chủ lưu tư tưởng, pháp đó đó là một mặt rất hẹp của tư tưởng thì làm thế nào hoàn toàn có thể lấp bít hết những trống rỗng trên nhiều mặt khác?

1.5. Hạng Võ đi ngược chiều lịch sử.

Phương thức bá nghiệp đã bất lực với việc thống trị đại thiên hạ. Bốn phương lại ly loạn. Lòng phục hận của con cháu Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy tạo ra rủi ro không mong muốn tiềm ẩn tiềm ẩn phân xé. Tuy nhiên chẳng sức mạnh gì hoàn toàn có thể ngăn ngừa lịch sử tiến bộ được. Sí đồ phân loại chư hầu liệt quốc của dòng họ sáu nước thất bại. Diệt Tần, nhưng điều cơ bản vẫn là tiếp tục hoàn thành xong thống nhất. Bất cứ thủ đoạn xé nát từng mảnh nào đều không hoàn toàn có thể tồn tại. Bởi vậy, việc cướp lại thiên hạ của Tần bị thu hút vào lực lượng lớn số 1: Sở Hạng Vương, sau trận thắng lợi diệt Tần ở Cư Lộc.

Nhưng Sở Hạng Vương đã phạm vào lỗi lầm đưa Sở diệt vong là đi ngược chiều với Xu thế thống nhất: chia phong 18 chư hầu. Trong số đó Hán Bái Công được phong làm Hán vương. Việc chia phong dẫn đến bất bình nội bộ. Hán vương liền thừa cơ lung lạc chư hầu nổi lên, vượt mặt Hạng Vương ở Cai Hạ.

Thất bại chia cắt này suýt nữa chính Lưu Bang cũng phạm phải. Tây Hán chí kể rằng:

“Một hôm Lịch Tự Cơ vào yết kiến Hán vương nói: Ngày xưa vua Thang vua Vũ đánh Kiệt, Trụ đều phong cho con cháu những nước bị đánh làm vua. Đến lúc nhà Tần thâu phục chư hầu mới hủy hoại xã tắc của tớ. Nay nếu Đại vương noi gương Thang, Vũ lập con cháu sáu nước bị mất lên làm vua, thì Đức và Lượng của Đại vương sẽ rải khắp thiên hạ. Tôi chắc Hạng Vương cũng tiếp tục khép vạt áo về chầu Đại vương.

Hán vương thích lắm, sai thợ khắc ấn sáu nước và sai Lịch Sinh đem ấn đi tìm con cháu, dòng dõi chư hầu mà phong.

Nhưng Lịch Sinh chưa đi, Trương Lương đã tới chầu.

Bấy giờ Hán vương đang ăn, thấy Trương Lương vội đem việc đó kể lại.

Trương Lương thất kinh nói:

– Ai bầy cho Đại Vương cái mưu kỳ lạ đó? Vua Thang, vua Vũ phong cho con cháu Kiệt Trụ là vì Thang Vũ đủ sức làm chủ sự sống chết của tớ. Còn Đại vương hoàn toàn có thể làm chủ được Hạng Vũ chăng? Vả lại những du sĩ trong thiên hạ theo Đại vương cốt là mong hưởng từng người vài mảnh đất nền trống. Nếu Đại vương lập những con cháu dòng họ cũ thì ai còn theo giúp Đại vương nữa. Hễ dùng mưu đó cơ nghiệp Đại vương tất tiêu tan.

Hán Vương nghe nói, nhả miếng cơm trong miệng ra, mắng Lịch Sinh: “Nếu tiên sinh không kịp đến, ta đã nghe lời rồ dại kia mà làm hỏng việc lớn rồi”.

Liền truyền bỏ hủy ấn sáu nước đi.

Lịch Sinh bị mắng xấu hổ lui ra.

Cách vài ngày sau, Trương Lương tìm tới nói với Lịch Sinh:

– Câu chuyện bữa trước, tôi thực tình vì nước chứ không còn ý riêng. Tôi không ngờ đó là ý của tiên sinh, về sau biết lấy được lòng tôi áy náy. Vả lại bàn việc phải xét kỹ mọi điều mới khỏi lầm lẫn. Nhà Hán tuy đã lấy được nửa đất của Sở, nhưng Hạng Vương thế lực còn mạnh lắm. Nếu ta phong cho sáu nước chư hầu, chẳng khác nào ta tự chia rẽ lực lượng của ta để mà đem trao cho địch. Tiên sinh chỉ thấy cái chỗ Hán vương với Thang, Vũ giống nhau mà không thấy cái chỗ Hán với Thang Vũ rất khác nhau.

1.6. Lưu Bang biết được thế lớn.

Thành công của Hán vương được những sử gia quy vào bốn chữ: Năng tri đại thể (biết được thế lớn). Bên cạnh bốn chữ năng tri đại thể còn phải kể tới yếu tố hầu hết là Hán vương đã gắn sát được sự nghiệp ông ta với lực lượng giai cấp sĩ. Giai cấp sĩ thời gian hiện nay đã chịu ràng buộc sâu đậm tư tưởng của Khổng phu Tử trên sinh hoạt và tư tưởng Quản Trọng trên phương pháp.

Sự ủng hộ của lực lượng giai cấp sĩ đem lại cho Hán vương kĩ năng lãnh đạo đại thiên hạ mà Tần và Sở đều không còn. Hán vương nói một câu thật khá đầy đủ ý nghĩa: Đấu trí mà không đấu lực. Câu này xác lập nhận thức đúng của Hán vương về cơ bản thành công xuất sắc trong tình thế mới là chính trị chứ không phải là vũ lực.

Nhu yếu của giai cấp sĩ gắn sát với công cuộc giành thiên hạ của Hán vương là nhằm mục đích mục tiêu đem tư tưởng của Khổng tử, Quản Trọng từ vị thế chủ lưu tiến quân vào Chính thống.

1.7. Lưu Bang bỏ thế lớn.

Vận hành lịch sử không bao giờ tiến theo một vạch thẳng tắp mà tiến theo đường xoáy ốc từ thấp đến cao.

Hán vương thống nhất thiên hạ rồi liền vận dụng chính sách hành chính thống nhất, đặt định Quận, Huyện, chỉ định quan lại. Sự nghiệp ổn định sinh ra tâm ý tự kiêu trong tâm Hán vương. Giai cấp sĩ phản đối, Hán vương từ bỏ giai cấp sĩ. Bị đuổi, giai cấp sĩ liền hòa hẳn với dân chúng đem Nho học đi sâu vào nhân tâm, đặt chuẩn tắc cho xã hội.

Còn triều đình Hán về sau ngày càng sa chân xuống vũng bùn xu nịnh, nguyên nhân của nạn hoạn quan, ngoại thích sau này.

Chia lìa giữa giai cấp sĩ với triều đình nhà Hán là chia lìa giữa lực lượng thống nhất bằng văn hóa truyền thống tư tưởng Và cũng là chia lìa giữa dân chúng với tập đoàn lớn lớn vua quan lại trị. Sự chia lìa này làm cho toàn bộ công cuộc thống nhất bạc nhược. Bạc nhược vì quyền bính chính trị thiếu sự hiệp trợ của văn hóa truyền thống tư tưởng, hiệp trợ của dân chúng tất yếu không thiết kế xây dựng nổi hiệu suất cao chắc như đinh. Còn văn hóa truyền thống tư tưởng thiếu uy thế của quyền bính chính trị tất yếu không tiến hành mau chóng được.

1.8. Văn hóa xung kích và Tam quốc.

Văn hóa tăng trưởng tất có khu TT (Center area) và khu biên duyên (Margin area). Khi khu TT phát đạt, nó sẽ xung kích vào khu biên duyên, để làm cho biên duyên khai hóa. trái lại khu biên duyên cũng chỉ chờ khu TT hủ bại, nội loạn là xung kích vào TT để tại vị ảnh hưởng và thế lực của tớ.

Cuối đời Hán, thế xung kích qua lại giữa khu văn hóa truyền thống TT với khu văn hóa truyền thống biên duyên trở nên gay go. Thế lực văn hóa truyền thống ở khu TT, để tồn tại nên phải tăng trưởng thành thế lực chính trị chứ không thể vẫn giữ tình trạng phân ly như cũ được nữa. Nhưng khốn nỗi, sự thối nát của triều chính Hán mạt đã làm cho quyền bính chính trị tản mạn chứ không triệu tập nữa.

Nho sĩ cũng phải phân tán để thiết kế thế lực chính trị ở những khu vực quyền bính chính trị rất khác nhau.

Sự trạng này tạo ra thế Tam quốc mà toàn bộ chúng ta sẽ bàn luận vào rõ ràng ở những bài sau.Page 9

Nhà học giả lớn của Trung Quốc, ông Tiền Mục viết: chính trị Tây phương vẫn chịu ràng buộc của giáo đường. Chúa Ki tô phán: “Sự việc của César trả lại cho César quản nhiệm, yếu tố của Thượng đế do Ta trông coi”. Lời nói ấy mang ý nghĩa: chính trị thuộc nhà vua, đạo lý thuộc thượng đế. Khi đế quốc La Mã sụp đổ thì nhà vua lại phải chịu sự phong chức, gia miện của Giáo hoàng.

Bởi vậy Tây phương đã trải qua thuở nào gian khá dài Thượng đế quản trị và vận hành cả việc làm của César. Do đó về sau mới phát sinh ra cách mạng tôn giáo gây thành tình trạng cơ quan ban ngành thường trực và giáo quyền phân lập. Cho đến nay sinh hoạt chính trị Tây phương vẫn chưa thoát khỏi vòng luẩn quẩn trên, mặc dầu hiện tượng kỳ lạ và danh từ tuy có khác, nhưng bản chất thì không khác chút nào.

Chính trị Trung Quốc không còn César cũng như không còn thượng đế mà chỉ có những người dân đọc sách (thành phần trí thức). Bởi vậy mọi biến cố chính trị thống nhất đều do thành phần trí thức. Cho nên ở lịch sử Trung quốc người ta thường thấy những hiện tượng kỳ lạ:

1- Khi nào cơ quan ban ngành thường trực và thành phần trí thức hợp tác ngặt nghèo, xã hội vương quốc sẽ hưng thịnh, yên ổn.

2- Khi nào cơ quan ban ngành thường trực và thành phần trí thức xung đột, xã hội vương quốc sẽ tao loạn.

3- Khi nào thành phần trí thức vô vọng với hiện thực, hoặc chuộng hư văn, xã hội vương quốc sẽ suy yếu.

4- Khi nào thành phần trí thức phấn khởi phát huy tư tưởng, say sưa trở về đồng ruộng giáo huấn đại hầu hết quần chúng nông dân, xã hội vương quốc sẽ phục hưng.

Thời đại Tam Quốc muốn hiểu cho xác thực thì phải lấy Gia Cát Lượng và Tào Tháo là TT. Vì hai người này là đại biểu cho việc diên trường của cuộc đấu tranh giữa thành phần trí thức với bọn hoạn quan. Để chỉnh đốn hàng ngũ, Tào Tháo chủ trương tuyệt đối chống lại phong khí sĩ đại phu cuối nhà Hán. Gia Cát Lượng chủ trương “đạm bạc ninh tỉnh” để sửa lại phong khí sĩ đại phu. Nhờ chủ trương phản đối triệt để ấy mà Tào Tháo đã được những thành phần trí thức tiến bộ quy phục nhiều hơn nữa Gia Cát Lượng.

Tiều Chu là một thành phần trí thức nhiều tiếng tăm ở Thục, đồng thời Tiều Chu cũng là điển hình của thành phần trí thức bạc nhược, hư vọng và vô vọng với hiện thực của trong năm cuối Tam Quốc.

Tiều Chu là người ra làm sao?

Sách sử chép: “từ lý uyên thâm, vi thế thạc nho”.

Tiều Chu đã hành vi ra sao?

Các nhà phê bình sử hậu thế, coi việc Tiều Chu xui Hậu chủ đầu hàng Đặng Ngải là một hành vi tối vô liêm sỉ của người đọc sách.

Tam Quốc chí diễn nghĩa kể: Hậu chủ ở Thủ Đô nghe tin Đặng Ngải đã lấy được Miên Trúc, mà cha con Gia Cát Chiêm đều chết trận cả rồi, sợ hãi không biết ngần nào, kíp vời văn võ vào thương nghị.

Cận thần tâu rằng: Nhân dân ở ngoài thành phố, già trẻ giắt díu nhau chạy loạn, tiếng khóc vang động xa gần.

Hậu chủ kinh hoảng.

Sực lại sở hữu tiểu mã chạy đến báo rằng: quân Ngụy sắp đến dưới thành rồi.

Các quan bàn rằng: Ở đây quân đơn tướng ít, địch sao nổi quân Ngụy, không bằng bỏ Thủ Đô chạy sang bẩy quận xứ Nam Trung, đất đó hiểm trở hoàn toàn có thể giữ được, nhân thể mượn quân Nam về Phục hồi cũng chưa muộn.

Quang Lộc đại phu Tiều Chu nói: Không nên. Quân Man vốn là quân phản trắc, xưa nay không còn ân huệ gì với ta, nếu ra nhờ đấy tất sinh vạ to.

Các quan lại tâu rằng: Thục Ngô đã liên minh với nhau, nay việc kíp lắm, nên sang ở nhờ Đông Ngô cũng khá được.

Chu lại can rằng: Từ xưa đến nay, không còn thiên tử nào đi nhờ nước khác bao giờ. Tôi chắc chắn là Ngụy lấn được Ngô chớ Ngô không lấn được Ngụy, nay xưng thần với Ngô là nhục một lần. Ngô bị Ngụy lấn nốt lại đi xưng thần với Ngụy là nhục hai lần. Chi bằng hàng ngay Ngụy đi, Ngụy tất cắt đất phong cho bệ hạ. Như thế trên giữ được tôn miếu, dưới yên được lê dân. Xin bệ hạ nghĩ cho kỹ mà xem.

Hậu chủ phân vân chưa quyết, lui vào trong cung.

Hôm sau những quan lại hội nghị. Tiều Chu thấy việc đã cấp đến nơi lại dâng sớ cố khuyên hàng. Hậu chủ nghe dịu tai, sửa soạn ra hàng.

Sực ở sau cánh bình phong, có một người quát to lên mắng Tiều Chu rằng: Quân hủ nho sợ chết kia. Sao dám nói càn đến việc lớn của xã tắc. Từ xưa có thiên tử hàng bao giờ mà mày nói càn như vậy?

Bức thư hàng của Hậu chủ mang những câu rất văn vẻ nhưng lại cũng rất hèn kém. Hậu thế cho là chính tại danh sĩ Tiều Chu với kĩ năng văn chương và với một tâm ý tham sinh úy tử mới viết được ra như vậy.

Người mắng Tiều Chu là Lưu Thầm con thứ năm của Hậu chủ. Thầm mắng Chu vì tiếc cơ nghiệp của ông cha.

Tiều Chu xui Hậu chủ đầu hàng để bảo vệ mạng sống thành viên, vị thế thành viên. Tuy nhiên qua Tiều Chu, một con người trí thức số 1 nước Thục, người ta còn thấy sự sa đọa của toàn bộ trí thức nho cuối đời Tam quốc.

Lực lượng vương quốc gốc ở đâu? Ở văn hóa truyền thống. Lực lượng văn hóa truyền thống gốc ở đâu? ở khí chất dân tộc bản địa. Khí chất dân tộc bản địa gốc là gì? Là đạo đức, là sinh mệnh lực và tâm trí lực (morale vitality, mentality)

Thời đại Tam Quốc là thời đại mà thành phần trí thức nho sở hữu vai trò cực quan hệ riêng với công cuộc thống nhất nền chính trị, văn hóa truyền thống, kinh tế tài chính, địa dư trong lịch sử Trung Quốc. Gần một trăm năm đấu tranh, thành phần trí thức nho đã tạo ra nhiều công trạng lớn lao mà sau này nhà Đường thừa kế.

Như toàn bộ chúng ta biết, lịch sử không chuyển đến theo một vạch thẳng, mà tiến hóa vận động theo một đường xoáy trôn ốc, cho nên vì thế cuối Tam Quốc thành phần trí thức nho đi từ hư nhược đến tỳ ố. Tại sao lại sở hữu tình trạng sa đọa như vậy?

Nó là kết quả của ba nguyên do:

1- Tam Quốc thời đại chịu quá nhiều cuộc chém giết, trận chiến tranh làm cho nhân tâm kinh hoàng.

2- Tam Quốc thời đại loạn lạc, lưu ly khiến sinh hoạt trở ngại vất vả, dân chúng không tin cả sự sống.

3- Huyền học phái hưng thịnh. Lão học quật khởi bằng chủ nghĩa thần bí, chống Nho học đã gây ra thực tiễn điêu tàn trước mắt.

4- Cuối Tam quốc là quy trình quá độ của tranh chấp Nho Đạo và Phật giáo tại Trung quốc. Phật giáo do đạo Lão bắc cầu đem vào Trung quốc.

Tóm lại ở cuối đời Tam Quốc những chủ nghĩa : Phá hoại, không tin yếm thế tăng trưởng mạnh, nghĩa của nho phái bị bóp méo, ẩn ngụy. Do đó từ đạo đức đến sinh mệnh lực, tâm trí lực của Nho học tại Trung Quốc mỗi ngày mỗi suy yếu. Tình trạng ấy không riêng gì có thai nghén ra Tiều Chu mà thôi, nó còn tạo ra loạn Ngũ Hồ phân cách Nam Bắc triều, hỗn loạn lục triều sau này.Page 10

Từ Xuân thu, Chiến quốc đến thời đại Tam quốc, thành phần trí thức là một yếu tố rất là trọng đại. Bởi thế, đi sâu vào việc này rất thiết yếu riêng với nhận định chính trị Tam quốc, và việc đọc chuyện Tam quốc.

Thường thường mọi khi nói tới lịch sử, toàn bộ chúng ta vẫn đặt những vướng mắc: Biến động lịch sử do tình hình quyết định hành động hay bởi ý chí con người quyết định hành động? Tồn tại quyết định hành động ý thức hay ý thức quyết định hành động tồn tại? Sinh hoạt quyết định hành động tư tưởng hay tư tưởng quyết định hành động sinh hoạt? Tư tưởng và sinh hoạt tự động hóa biến hóa hay là vì ngoại lực làm cho biến hóa?

Trước kia, thảo luận để tìm một giải đáp cho những vướng mắc trên, những phe phái hay phải đi vào con phố cực đoan, rồi đưa ra nhiều luận cứ bênh vực cho chủ trương: tình hình quyết định hành động lịch sử, sinh hoạt quyết định hành động tư tưởng, tồn tại quyết định hành động ý thức, nhất thiết dịch chuyển lịch sử đều do ngoại lực tạo ra; hoặc bênh vực cho chủ trương: ý chí con người quyết định hành động lịch sử, ý thức quyết định hành động tồn tại, tư tưởng quyết định hành động sinh hoạt, nhất thiết dịch chuyển lịch sử đều do ý chí con người tạo ra.

Nhưng mới gần đây, hầu như toàn bộ đã công nhận rằng: tình hình với ý chí, tồn tại với ý thức, tư tưởng với sinh hoạt, ngoại lực với nội tại đều phải có tác dụng qua lại mà làm ra dịch chuyển lịch sử. Chiếc cầu nối sự qua lại đó là Văn hóa. Do tác dụng qua lại giữa con người với tình hình nên Văn hóa được sản sinh. Phương vị trí hướng của Văn hóa, độ nhanh chậm của Văn hóa chịu ràng buộc từ kết quả của tác dụng qua lại của nhân duyên nội với ngoại.

Theo Hồ Thu Nguyên: Tổ tiên toàn bộ chúng ta thời thượng cổ, đương nhiên chịu chi phối của tình hình, nhưng quả đât không như những động vật hoang dã khác, riêng với tình hình ngoài nỗ lực thích ứng, loài người còn tìm cách chống lại, khắc chế, tái tạo và tận dụng. Bởi thế nên loài người mới sản xuất ra công cụ. Nhưng song song với việc sản xuất công cụ phải có ý, có tư tưởng, có tiếng nói. Nếu không còn ý, có tư tưởng, có tiếng nói thì không thể sản xuất ra công cụ được. Vậy giữa công cụ với tư tưởng ta không nên được đặt yếu tố công cụ có trước, tư tưởng có sau hay ngược lại. Chẳng qua ta hãy ý niệm cả hai là cùng một lúc.

Từ sử tự nhiên bước vào sử quả đât, loài người trở nên động vật hoang dã văn hóa truyền thống, loài người lấy văn hóa truyền thống để mở đầu lịch sử cho mình, văn hóa truyền thống thành ra một khả năng mới cho việc tiếp xúc của người với tình hình.

Văn hóa là tác nhân rất là trọng yếu riêng với việc lý giải lịch sử. Lịch sử thông qua văn hóa truyền thống mà dịch chuyển, trí thức là quyền lực tối cao. Do đấy mà thành phần trí thức nắm phần hầu hết trong mọi dịch chuyển lịch sử.

4.1. Lý luận Vilfredo Paréto

Nhà Xã hội học Vilfredo Paréto nhận định rằng:

– Trị, loạn, cách mạng, hòa bình, trận chiến tranh gồm nhiều nguyên nhân: địa dư, kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, chính trị v.v.. Nhưng quyết định hành động đều ở nơi kết quả vận chuyển của thành phần trí thức.

Phần tử trí thức Paréto chia ra làm hai loại:

a- Nắm cơ quan ban ngành thường trực

b- Không nắm cơ quan ban ngành thường trực.

Phần tử trí thức hay ưu tú trong xã hội không bao giờ nằm im, trái lại nó luôn luôn vận động. Vận chuyển của nó là đấu tranh thay thế nắm quyền bính để lấy vận mệnh xã hội, vận mệnh chính trị lên con phố mới.

Khi thành phần trí thức tại quyền không hề đủ kĩ năng, đủ lực lượng để lãnh đạo chính trị, lãnh đạo xã hội, bắt kịp nguyện vọng thời đại nữa sẽ bị đào thải, cơ quan ban ngành thường trực sẽ chuyển sang tay lực lượng trí thức khác đủ kĩ năng hơn. Chính quyền nào không thu hút nổi những lực lượng mới, để những lực lượng ngoài tách rời mình tự trưởng, tự thành, tăng trưởng lên được thì cơ quan ban ngành thường trực đó chẳng chóng thì chầy phải bị lật đổ. Những hiện tượng kỳ lạ tiêu diệt, trưởng thành của những lực lượng xã hội đó đó là những diễn biến lịch sử vậy.

4.2. Phần tử trí thức đời Xuân thu, đời Chiến quốc

Nhà Chu lúc thiên sang Đông là khởi đầu thời đại Xuân thu, Chiến quốc. Xuân thu, Chiến quốc dài 551 năm. Xuân thu, Chiến quốc là thuở nào đại ghi nhận sự biến hóa lớn lao của chính trị, kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống Trung quốc. Hai chữ Xuân thu nguồn gốc từ sử liệu nước Lỗ. Hai chữ Chiến quốc do cuốn sử Chiến quốc mà ra.

Ông Hồ Thu Nguyên viết:

– Hình thành ra Xuân thu, Chiến quốc ngoài nguyên nhân nhân khẩu tăng gia còn là một kết quả của yếu tố xung đột giữa trào lưu văn hóa truyền thống nhân văn chủ nghĩa với chính sách phong kiến nhà Chu. Lấy Quản Trọng và Khổng Tử làm đại biểu thành phần trí thức lãnh đạo trận chiến đấu trên.

Kể từ lúc Tề hoàn Công dùng Quản Trọng, thiết kế xây dựng nghiệp Bá chư hầu, những cương giới phong kiến bị tiệt trừ, kinh tế tài chính thương nghiệp tăng trưởng.

Chiến tranh và kinh tế tài chính thương nghiệp không những đã phá đổ lực lượng hữu hình phong kiến, còn quan trọng hơn thế nữa là yếu tố sản sinh một văn hóa truyền thống lực mới. Văn hóa lực mới khi biểu lộ trên những lực lượng hữu hình mới, liền thành một lực lượng quyết định hành động hoạt động và sinh hoạt giải trí lịch sử.

Văn hóa lực mới là gì?

Học vấn được phổ cập, lực lượng của giai cấp sĩ xuất hiện. Tính chất quan trọng của giai cấp sĩ là nhờ học vấn phổ cập, do đối đầu đối đầu của liệt quốc mà dân dã đã thông qua trí thức để nhẩy lên vũ đài chính trị. Trước kia thời Tây Chu và ngược lên nữa, chính trị đều ở tay quí tộc sở hữu. Vận mệnh xã hội, vương quốc phải chịu bọn Vương Công đại nhân, những Công tử, Vương Tôn, Thế Khanh truyền tử truyền tôn điều khiển và tinh chỉnh.

Sang Xuân thu, Chiến quốc thì tình trạng lật ngược hẳn, xã hội liên tục có những vận động hạ khắc thượng (dưới chống trên). Chư hầu không thừa nhận Vương Thất, Đại Phu không thừa nhận Chư hầu, Gia thần không thừa nhận Đại phu, dân chúng không thừa nhận quyền uy của đại tộc, thế khanh. Mỗi bậc, mỗi mức trong quy trình đấu tranh đều giác ngộ quyền lợi của tớ. Nhu cầu trí thức chính trị lên rất cao. Phần tử trí thức càng hệ trọng riêng với những vận động lịch sử. Phần tử trí thức càng hệ trọng thì thế lực dân dã càng vững mạnh. Khổng Tử nắm một phần hầu hết trong việc đào tạo và giảng dạy thành phần trí thức mới và lực lượng dân dã.

Nếu dùng niên lịch để phân biệt Xuân thu với Chiến quốc, đại khái toàn bộ chúng ta hoàn toàn có thể nhận thời Chiến quốc khai mào từ sau ngày Khổng Tử mất một năm đến lúc nhà Tần thống nhất. Chiến quốc lâu chừng 260 năm.

Mặc dầu có những điểm rất khác nhau trên trình độ cũng như trên bản chất, nhưng thực sự Chiến quốc chỉ là yếu tố tăng trưởng của Xuân thu. Hết thẩy những vận động đều đặt trên cơ sở:

– Phá hoại thái ấp phong cương và giai tầng phong kiến.

– Phát triển vương quốc vương quyền và tăng trưởng để thống nhất.

– Phân hóa văn hóa truyền thống cổ xưa để tung hợp thành Xu thế tân văn hóa truyền thống.

260 năm thuộc thời đại Chiến quốc, đứng về mặt học thuật và chính trị mà nói, hoàn toàn có thể chia ra làm ba thời kỳ lớn:

1- Thời kỳ nước Sở nước Việt thay nhau làm Bá chư hầu và nước Ngụy nước Tề tranh hùng.

2- Thời kỳ vận động liên hoành và hợp tung.

3- Thời kỳ nước Tần tiêu diệt lục quốc.

Chiến quốc có năm tiến hóa trọng đại:

a- Tiến bộ kỹ thuật.

b- Kinh tế tăng trưởng, chính sách công điền bị triệt bỏ, đô thị mở rộng, thương nghiệp hưng thịnh, hóa tệ phát đạt.

c- Chiến tranh ác liệt hóa, quan hệ tình trạng quân quốc hóa của nước Trung hoa.

d- Chiến tranh và kinh tế tài chính tạo ra vương quốc quân chủ tập quyền.

e- Phần tử trí thức làm chủ tể chính trị.

Thời Xuân thu, dân dã quật khởi mới chỉ là thiểu số, tới Chiến quốc thì quí tộc, thế khanh lần lượt nhượng vị cho những du sĩ văn học. Phong khí tư tưởng tự do song song với tình thế trận chiến tranh đã tạo ra những hiện tượng kỳ lạ sử sĩ hoành nghị, và bố y khanh tướng, (áo vải lên khanh tướng).

Trước đấy, thế lực bọn thế khanh quí tộc đã biết thành lung lay vì những tư tưởng Khổng, Mặc. Bây giờ lại thêm tự do kinh tế tài chính khiến thành phần trí thức không hề phải sống bám quí tộc nữa, càng làm cho khí thế thành phần trí thức to to nhiều hơn.

Thời Chiến quốc, những ông vua vì đều phải có chung một chủ trương đối nội: tước trừ thế lực quí tộc, đối ngoại thì hùng cường với những nước khác, cho nên vì thế phải nhờ vào những lực tân hưng, bằng phương pháp chiêu hiền nạp sĩ, chỉnh đốn học thuật. Nhờ vậy mà những học thuyết dấy lên, trăm hoa đua nở. Sinh thời, Khổng Tử thất bại với 72 ông vua, thì ở Chiến quốc những người dân chịu tư tưởng của ông nhất nhất đều được trọng dụng. Tỉ dụ như: thầy Tử Hạ được Ngụy Văn Hầu bái kiến. Lỗ Mục Công dùng Tử Tư và Công Nghi Thể. Hàn quốc dùng Thân Bất Hại. Tề Uy Vương trọng đãi Tôn Tẫn, Sô (Trâu?) Kỵ v.v.. Thời Chiến quốc hoàn toàn có thể gọi là thời kỳ của thành phần trí thức dân dã.

4.3. Phần tử trí thức đời Tần

Sáu nước suy tàn hấp hối chờ Tần thôn tính. Tình hình chính trị nhu yếu một quyền lực tối cao ngặt nghèo thống nhất. Dĩ nhiên, không khí “đua nhau lên tiếng” của chư tử trên lãnh vực tư tưởng trở nên một vật chướng ngại to tát cho công cuộc kiến lập quyền lực tối cao kia. Chính những học gia cũng hô hào thống nhất tư tưởng. Nhóm Lã Bất Vi mở đầu vận động này. Môn khách trí thức nhà họ Lã thảo luận và trước tác cuốn Lã thị Xuân thu. Sách Lã thị Xuân thu tung hợp nhiều phái tư tưởng rất khác nhau, gồm 26 thiên trộn lẫn nào Pháp gia, Mặc gia, Nho gia, Đạo gia v.v. Tỉ dụ: Thiên “Quý sinh” và “Vô tư” gốc ở Nho gia, thiên “Thượng hiền”, “Kiệm táng” gốc ở Mặc học v.v..

Nhưng sách Lã thị Xuân thu không được Tần Thủy Hoàng ưa. Một phần vì Lã thị Xuân thu chưa phục vụ đúng với nhu yếu chính trị mới. Một phần vì Tần Thủy Hoàng thù hận Lã bất Vi. Về sau Tần Thủy Hoàng hưởng ứng tư tưởng Hàn Phi, bèn giải tán học phái họ Lã, đầy Lã bất Vi sang Thục, tại đây Lã bất Vi uống thuốc độc tự tử.

Hàn Phi là một nhà tư tưởng thuộc phái Pháp gia. Tư tưởng Hàn Phi chịu ràng buộc của pháp thuật của Thân Bất Hại, Thương Ưởng, lý luận và khí chất của Tuân Tử, hành vi của Lão. Lão học kết phù thích hợp với pháp thuật liền biến chất mà thành một thứ hư vô chủ nghĩa. Hàn Phi chủ trương:

a- Không rỉ tai nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả.

b- Lấy pháp để răn dạy, lấy lại làm thầy, lấy chém đầu làm dũng.

c- Lấy hiệu suất cao và kinh nghiệm tay nghề làm tiêu chuẩn chân lý.

d- Chống lại thuyết chuộng hiền của Nho, Mặc, coi Nho, hiệp, thương, công như bọn du thực.

e- Đốt thi thư để làm sáng pháp lệnh, tôn vinh nông chiến.

Chủ trương của Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng vận dụng đã làm cho thành phần trí thức gặp một phen khốn đốn. Mặc dầu Tần Thủy Hoàng nghe Lý Tư giết Hàn Phi, nhưng chủ trương Hàn Phi vẫn tiếp tục.

Sự kiện đốt sách chôn nho đó đó là kết quả tất yếu của xung đột giữa thành phần trí thức với chủ trương Hàn Phi đem thi hành bằng vũ lực.

Các nhà nho bị buộc phải từ bỏ lý luận và đọc sách. Muốn học thì đến thụ huấn ở bọn lại, muốn đọc sách chỉ độc có hai loại sách bói toán. Nho phái liền ẩn lý luận Dịch vào sách bói toán để phát huy tư tưởng.

4.4. Phần tử trí thức lật đổ nhà Tần

Đối đãi với thành phần trí thức, Tần Thủy Hoàng dùng hai chủ trương:

1- Tiêu diệt bằng vũ lực và

2- Tiêu diệt bằng dụ dỗ.

Tiêu diệt tư tưởng bằng vũ lực dĩ nhiên là một điều không thể làm được. Tiêu diệt thành phần trí thức bằng dụ dỗ thì chỉ đem lại hiệu suất cao phần nào thôi. Đa số thành phần trí thức không biến thành lay chuyển bởi Danh, Lợi, Uy như vua Tần vẫn lầm tưởng.

Dưới triều Tần, trí thức tản mạn vào đồng ruộng, núi rừng để truyền bá tư tưởng phản Tần. Từng nhóm, từng nhóm nổi lên như: Phạm Tăng, Hoàn Sở, Sương Hải Quân, Hoàng Thạch Công, Trương Nhĩ, Trần Dư, Điền Hoành, Khoái Thông v.v..

Những vận động tư tưởng chuyển thành đấu tranh vật chất nhóm lên bằng mũi chùy của Trương Lương, rồi đến Trần Thiệp khởi sự.

4.5. Phần tử trí thức giao thời Tần-Hán

Cuối Chiến quốc thành phần trí thức tụ tập ở nước Tần, tương hỗ cho Tần kiêm tính thiên hạ, Tần thi hành bạo chính, trí thức thoái về dân gian vận động chống Tần.

Như vậy trí thức đời Tần phân thành hai phái:

– Phái nắm cơ quan ban ngành thường trực.

– Phái dựng thế lực bên phía ngoài chống cơ quan ban ngành thường trực.

Vận động phản Tần mạnh lên thì thành phần trí thức tại triều cũng khởi đầu tan rã. Sự tan rã này phân định làm ba loại:

– Giao động nên nghĩ cách tự tư, tự lợi như bọn phương sĩ Lư Sinh, Từ Phúc lừa tiền bỏ trốn.

– Do tranh chấp quyền thế bị đào thải như bọn Lý Tư.

– Hưởng ứng Cách mạng như nhóm Tôn thúc Thông, Trương Lương, Tiêu Hà.

Các thế lực trí thức chống cơ quan ban ngành thường trực tuy rằng có sự chia rẽ giữa Nho đạo và đạo Hoàng Lão, nhưng chỉ là yếu tố chia rẽ trên học thuật thôi, không đưa dẫn đến chia rẽ chính trị phản Tần.

Vận động phản Tần đã ghi một thành tích tuyệt đích cho lịch sử đấu tranh của thành phần trí thức dân dã là: từ khanh tướng áo vải chuyển lên Hoàng đế áo vải.

4.6. Phần tử trí thức đời Tây Hán

Lưu Bang vốn không phải là người đọc sách. Lưu Bang đoạt thủ cơ quan ban ngành thường trực nhờ biết nhờ vào thành phần trí thức. Phần tử trí thức nỗ lực chẳng phải vì Lưu Bang mà vì trách nhiệm và trách nhiệm diệt bạo Tần. Bởi vậy giữa Lưu Bang và thành phần trí thức vẫn vẫn đang còn bức tường ngăn cách khó phá thông.

Ngay sau khi nhà Tần bị tiêu diệt, Hán cao Tổ đã tỏ thái độ bất dung trí thức. Thấy thế Ngụy Báo từ khước bái yết Cao tổ, Trương Lương đi ẩn, nguyện bỏ dân gian sự để rong chơi (nguyện khứ dân gian sự, tòng xích tùng tử du).

Sở dĩ thành phần trí thức xấu đi phản đối, là tại cơ quan ban ngành thường trực Hán nhất nhất rập theo chủ trương của chính sách Tần triều. Phần tử trí thức ghét chính trị Tần chứ không ghét tập đoàn lớn lớn giang hồ Lưu Bang….. Thêm một nguyên nhân nữa là thành phần trí thức vẫn hoài niệm phong độ Chiến quốc, phóng khoáng, lãng mạn.

Thời Tây Hán, trí thức tham gia chính trị phải tuân theo một pháp chế ngặt nghèo, khuôn mức rất khác thời Chiến quốc, trí thức áo lá, nón rách nát đến diện kiến quốc vương dùng biện thuyết mà đoạt tướng ấn Công Khanh.

Dĩ nhiên đem nhu yếu phóng túng tự do riêng tư để chống lại nhu yếu chính trị đại thể, đương nhiên thành phần trí thức không thể thắng Hán triều. Khi Hán Vũ Đế đại định thiên hạ, thì thành phần trí thức từ bỏ vận động vãn hồi tình trạng tư tưởng tự do thời Chiến quốc. Người trí thức muốn xuất chính phải bước từ huyện học lên tới Quốc lập ĐH. Tốt nghiệp học viên phải trở về quê nhà bản quán đảm nhiệm một tiểu chức nơi nha môn, từ từ tạo nhiều thành tích mới được đề bạt lên TW. Phần tử trí thức thời Tây Hán, đại bộ phận xuất hiện từ nông dân thuần phác, nên phong thái thường đơn hậu. Ở Chiến quốc học giả vẫn tự coi mình ngang với thánh nhân. Ở Tây Hán thì đại (địa?) vị học giả xuống thấp. Theo với quyền lực tối cao thống nhất pháp, thống nhất chế, học thuật cũng cần phải thiết một vị sư biểu. Do đó, Khổng Tử được thần thánh hóa và đưa lên duy nhất.

4.7. Phần tử trí thức thời Đông Hán

Vương Mãng tranh thiên hạ rồi Lưu Tú dựng lại Hán thất gọi là Đông Hán hay Hậu Hán.

Khoảng thời hạn giữa Tây Hán, thành phần trí thức chớm khuynh hướng quần tụ. Một đại sư có tới mấy trăm môn đệ. Thái học viên ban đầu chỉ ước chừng 50 người, từ từ tăng thêm 200 rồi 3000, cuối Đông Hán số lượng lên nhanh đạt tới gần 30.000.

Bản thân Thái học thành hẳn một xã hội riêng không liên quan gì đến nhau (Vương Mãng, Lưu Tú đều thuộc nhóm Thái học viên). Vì ở tiếp cận với TW chính phủ nước nhà nên Thái học là tập đoàn lớn lớn có thế lực, tiếng nói của nhóm Thái học hướng dẫn dư luận toàn quốc, ảnh hưởng nhiều đến chính trị. Địa vị người học lại từ từ nâng cao. Nhưng thế lực tập đoàn lớn lớn Thái học cũng làm cho bộ mặt và tình hình của của thành phần trí thức Đông Hán khác hoàn toàn với Tây Hán.

Thời đại Tây Hán, học vấn vốn vẫn là vũ khí nhiều kĩ năng nhất của dân dã muốn xuất chính. Tập đoàn Thái học thành hình thì những người dân dân dã thông qua học vấn để xuất chính trước kia nay đã trở nên quý tộc. Thái học biến ra xã hội con ông cháu cha, tạo thành tình trạng đảng cố môn đệ. Tập đoàn Thái học trên chính trị, xa rời quyền lợi dân dã, chuyên chú vào những thủ đoạn tranh chấp đảng nhóm, không biết nhờ vào thế lực chính trị mà tranh thủ xã hội. Trên học thuật tư tưởng, Thái học nhân vì tập nhiễm xã hội đô thị nên mất hết phong thái đôn hậu chất phác, bỏ hẳn chủ trương lấy chí dụng làm cơ sở cho học vấn, để vùi đầu trong tư tưởng hoa mỹ, tận thưởng thú vị nghệ thuật và thẩm mỹ và làm đẹp. Tóm lại, bản chất tập đoàn lớn lớn Thái học viên in như tinh thần câu ca dao Việt:

Học trò đèn sách hôm mai,

Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào,

Làm nên quan thấp, quan cao,

Làm nên võng tía, võng đào nghênh ngang

của hình thức thư sinh quý tộc, không hề phong độ “kiếm bạt nỗ trương” (rút kiếm, giương cung) thời Chiến Quốc nữa.

Do tính chất môn phiệt của tập đoàn lớn lớn trí thức Thái học mà thành phần trí thức bị phân hóa, nhiều lực lượng trí thức dân dã rộ lên và trưởng thành đòi quật đổ bọn trí thức thống trị. Đồng thời trong triều đình, thế lực hoạn quan mỗi ngày mỗi lớn chèn ép tiếng nói Thái học

Xung đột giữa tập đoàn lớn lớn quý tộc trí thức Thái học với hoạn quan, xung đột giữa lực lượng trí thức mới dậy với bọn trí thức tại quyền, sự tan rã của quyền lực tối cao TW và sự bành trướng của quyền lực tối cao địa phương – đó là toàn bộ cục thế loạn ly thời kỳ mở vào Tam Quốc phân tranh.

4.8. Trí thức tại triều bị hoạn quan quật ngã

Đời vua Hoàn Đế, bọn hoạn quan giết chết Lương Ký. Nhân thời cơ hoạn quan ngoại thích đánh nhau, nhóm trí thức tại triều liền được triệu tập để tiêu trừ hoạn quan. Cầm đầu vận động là những vị Đại thần Hoàng Huỳnh, Trần Phồn. Lực lượng cơ sở gồm thanh niên đô thị và tập đoàn lớn lớn Thái học viên. Đường lối, chủ trương là yên cầu thanh lọc.

Những danh sĩ thời đó phụ giúp có: Chu Mục, Lưu Hựu, Tuân Dục, Sài Diễm, Vương Hoàng, Phạm Khang. Bọn hoạn quan trước sức tiến công của nhóm trí thức triều thần, bị bắt và bị giết quá nhiều.

Nhưng không được bao lâu, thế lực hoạn quan phản công ngay. Nhờ vụ Lý Ưng, hoạn quan xoay chuyển hẳn tình thế, vua Hoàn Đế hạ lệnh tầm nã tập đoàn lớn lớn Thái Học khiến cho hoạn quan tha hô mà giết. Sang triều vua Linh Đế thì phe triều thần trí thức quỵ hẳn.

4.9. Vương Doãn một điển hình

Vương Doãn điển hình cho cái gì?

Cho tính chất đã thiếu kĩ năng lãnh đạo của nhóm trí thức tại quyền. Chúng ta đều đã biết rõ nguyên nhân loạn có hai mặt:

– Thứ nhất: Chính trị chuyên chế bị hoạn quan ngoại thích lũng đoạn.

– Thứ hai: Tệ hại ngay trên bản thân văn hóa truyền thống và thành phần trí thức.

Thế lực hoạn quan và ngoại thích khi đã tràn ngập Hoàng Triều, nó liền một tay nắm trọn guồng máy cơ quan ban ngành thường trực bằng phương pháp đan kết một chiếc lưới bè nhóm, ân huệ, tư tình, hôn phối. Thành phần cai trị mỗi ngày thêm ác hóa. Công Khanh, Đại Thần từ từ chỉ từ là lực lượng hậu bị của hoạn quan ngoại thích. Phần tử trí thức trong triều nếu không đuổi theo xu phụng hoạn quan ngoại thích tất bị loại trừ. Triều thần trí thức chống lại nhưng không nổi.

Sở dĩ thành phần trí thức tại quyền thất bại, để hoạn quan ngoại thích lăng áp là tại trí thức đã tự mình phiệt duyệt hoá, chuyên chế hóa, đem cả sinh hoạt, học vấn, ý niệm tâm ý lẫn khí chất sô vào con phố thật nguy hiểm:

a) Thoát ly dân chúng, thoát ly xã hội.

b) Hưởng thụ bằng đại vị ăn trên ngồi chốc.

c) Không làm chính trị đại thể mà chỉ làm chính trị thủ đoạn.

Thân xác trí thức tại quyền cuối Đông Hán đầy những tệ bệnh nào là:

Bệnh chỉ khỏe nói quân tử tiểu nhân, mà cơ bản không biết phải xử lý và xử lý yếu tố.

Bệnh học phiệt, tự cho mình là những người dân khác thường.

Bệnh hư văn, lễ nghi phiền toái.

Bệnh danh tiết, thao tác chỉ vì trung nghĩa, lối trung nghĩa của luân lý “gia thiên hạ”.

Bệnh gàn dở kiêu căng.

Bệnh danh sĩ hỗn hợp gàn dở kiêu căng với danh tiết.

Vương Doãn là một nhân vật điển hình, điển hình cho thành phần trí thức tại quyền đang hấp hối vì Ông ta mang gần đủ những thứ bệnh nói trên.

Chúng ta hãy cùng đọc lại hồi thứ chín (9) trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa để nhận xét hành vi của Vương Doãn qua những yếu tố:

– Kế liên hoàn, Doãn dùng cái danh lão phu để lạy hết Đổng Trác và Lã Bố. Mục đích chỉ để hoàn thành xong một mưu mô chẳng lấy gì làm đẹp cho lắm.

– Giết xong Đổng Trác, vào cơ quan ban ngành thường trực rồi, Vương Doãn như người say rượu lóng ngóng. Vương Doãn đã phạm hai lỗi cực lớn:

1) Chém Sái Ung chỉ vì Sái Ung khóc Đổng Trác.

2) Đẩy bọn Lý Thôi, Quách Dĩ đến bước cùng, làm cho những người dân Khương Hồ dầy đạp, đầy đọa dân chúng. Kết quả việc làm của Vương Doãn là thay tình trạng quân phiệt bằng tình trạng kiêu binh.

Trung nghĩa hão, nên lúc thất bại Doãn lưu lại một lời kỳ thú “Hà tất đa ngôn, ngã Vương Doãn kim nhật hữu tử nhi dĩ”. Lời này cụ Phan Kế Bính dịch sang Việt ngữ còn lý thú hơn: “Tao chỉ từ cái xác tao đây, chúng bay muốn làm gì thì làm”.

4.10. Ngụy trí thức cùng loại Vương Doãn

Từ Xuân Thu, Chiến Quốc trách nhiệm của người trí thức đã được đặt định rất là minh bạch:

Đem tận tâm góp sức, giáo hóa dân chúng.

Phấn đấu cho quyền lợi của dân dã.

Đoàn kết dân chúng.

Phấn đấu cho đạo đức, tư chất bản thân chống với những áp hòn đảo tiền bạc, vũ lực của bọn quý tộc, của cơ quan ban ngành thường trực.

Dùng học vấn làm công cụ nâng cao niềm sung sướng dân chúng.

Những trách nhiệm ấy được nhân cách hóa và trờ thành phong độ của toàn bộ những người dân trí thức. Nó gói tròn bằng ba chữ cơ bản: Nho, Hiệp -chung đúc bởi tư tưởng Khổng, Mặc – và Ẩn của Đạo học.

Nho lấy tu dưỡng bản thân yên trăm họ (quân tử tu kỷ dĩ an bách tính) làm trách nhiệm tâm; lấy không lo sợ ngại, không mê hoặc, không sợ (bất ưu, bất hoặc, bất cụ) làm tự tôn tâm, lấy trang nhã, cung kính, khiêm nhường (trang cung khiêm nhượng) làm thái độ xử thế.

Hiệp là thái độ mềm nhưng không nhũn nát, cứng nhưng không giòn gẫy, không khinh mạn người thế cô, không sợ sệt kẻ cường bạo.

Ngụy trí thức là thế nào?

Ngụy trí thức có nhiều hạng. Hoặc là bọn người chỉ hấp thụ không ít học vấn nhưng lại thiếu tu dưỡng nhân cách. Hoặc là bọn người chỉ chú ý câu nệ tu dưỡng chữ nhân chữ đức mà bỏ mất học vấn hữu ích. Hoặc là bọn người chỉ biết đem học vấn bán ra nuôi miệng, nuôi dục vọng vị kỷ. Hoặc là bọn người chỉ biết văn chương phú lục mà không còn tư tưởng chính trị.

Hồi tiền Tam Quốc, mặt ngụy trí thức xuất hiện thật nhiều, phần lớn đều là những kẻ tách xa đại chúng để a dua với tập đoàn lớn lớn thống trị, từ bỏ phong độ tu kỷ an bách tính, bám vào hàng ngũ thống trị, lại thêm tật tự coi mình là quý tộc. Trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa ghi nhận ngụy trí thức như bọn: Dương Bưu, Dương Mặc, Phàn Trù, Chu Tuấn, Cảnh Vũ, Quan Thuần, Vương Kỳ, Chu Hoán v.v… Nhưng có mấy mặt điển hình nhất là Vương Doãn, Sái Ung và Lý Túc. Vương Doãn thuộc vào hạng Nho cũng dở mà Hiệp cũng dở. Sái Ung thuộc vào hạng Hiệp mù quáng nhiều tình cảm tri kỷ nhưng thiếu quan điểm quần chúng. Lý Túc thuộc vào hạng chẳng Hiệp cũng chẳng Nho, chỉ biết biện bác vặt, xui dại, xui khôn, thầy cò. Lý Túc hết khuyên Lã Bố giết Đinh Nguyên lại dụ Đổng Trác vào Tràng An cho Vương Doãn sát hại. Nhưng lúc ra chỉ huy ba quân thì tài biện bác vẫn không đủ sức cáng đáng trách nhiệm nữa, dĩ chí để Ngưu Phụ cướp mất trại, di lụy đến thân.

Nói chung, mặc dầu mỗi quy trình lịch sử đều phải có những sắc thái riêng không liên quan gì đến nhau, nhưng trên cơ bản ta hoàn toàn có thể bảo Ngụy trí thức là bọn người cắn chặt vào quyền thống trị cũ, chính sách cũ, sinh hoạt cũ, gặp tình hình biến chuyển mới hoàn toàn bị cạn ý thức, không ngoi lên được ngoài những vùng vẫy vô ích trước lúc chìm nghỉm.

4.11. Văn hóa biên duyên xung kích – Loạn Khương Hồ và kiêu binh

Đổng Trác tuy bị giết hại nhưng thủ hạ vây cánh quân đội của Trác còn đông đặc tại triều đình. Bọn chúng vừa mất chủ vừa lo thân nên chúng tác loạn cướp bóc tứ tung trong lúc cơ quan ban ngành thường trực mới lại không còn một chính lệnh nào để làm an lòng chúng, thành ra Kinh đô thiếu bảo mật thông tin an ninh, dân chúng cực khổ. Chính quyền mới chỉ để ý quan tâm đến lực lượng của Ngưu Phụ đóng ở Thiểm huyện, nên sai Lã Bố tiến đánh. Sở dĩ Vương Doãn để ý quan tâm Ngưu Phụ có lẽ rằng không vì nhu yếu chính trị hay quân sự chiến lược mà chỉ vì Ngưu Phụ là con rể Đổng Trác, cái tâm ý môn phiệt tôn tộc xưa nay vẫn vậy. Thực ra lực lượng Ngưu Phụ đâu có đáng sợ bằng mối loạn ngay trong tâm ruột, xem việc Ngưu Phụ cùng Hồ xích Nhi chôn dấu vàng bạc rồi bỏ đi thì đủ biết.

Đến khi Lã Bố chống không nổi bọn Lý Thôi, Quách Dĩ, chạy về Tràng An thì quân giặc trong ngoài đông nghịt, chẳng khác mây che mưa phủ, vây kín thành trì. Số phận Vương Doãn, Lã Bố đã được quyết định hành động.

Tràng An lọt vào tay Lý Thôi, Quách Dĩ, với những thủ đoạn kiêu binh bắt giết, hãm hiếp và bức vua phong tước cho chúng thực cao, toàn Hầu, Tướng.

Cảm nỗi cơ cực, nàng Sái văn Cơ, con Sái Ung, làm một bài thơ tả cảnh loạn ly, với nhiều câu rất xác thực như:

Trảm lục vô tiết di

Thi hài tương trưởng cự

Mã biên huyền nam đầu

Mã hậu tải phụ nữ

Can tỳ vi lạn nhục

………………….

Dục tử bất khả đắc

Dục sinh vô nhất khả.

Tạm dịch:

Chém giết chẳng chừa ai

Thây chất chồng chất đống

Cổ ngựa treo đầu trai

Lưng ngựa thân gái trói

Ruột gan thối nhầy nhụa

………………………

Muốn chết, chết chẳng được

Muốn sống, sống không xong.

Trong bài thơ của Sái văn Cơ còn một câu:

Lai binh giai Hồ, Khương (quân lính toàn rợ Hồ, Khương)

Câu thơ đó chứng tỏ rằng: Quân đội Tây Lương của Đổng Trác, sau này của Thôi, Dĩ, phần lớn lẫn lộn những dị tộc nhân Trung Quốc loạn, mượn thế tràn vào.

Người Khương giờ đây hãy còn ở tại mức kinh tế tài chính du mục, vị trí căn cứ tại miền Đông tỉnh Cam Túc giờ đây. Thời Chiến quốc từng hỗn nhập với những người nước Tần mà tràn vào bờ phía Tây sông Hoàng Hà. Thời Tây Hán người Khương bị đánh đuổi chạy ngược lên phía Tây. Cuối triều Vương Mãng, thừa cơ Trung Quốc loạn lạc, người Khương lại xâm lấn, lần này họ vượt qua sông, nhưng bị văn hóa truyền thống Trung Quốc quá khỏe đồng hóa mất. Tuy thế, người Khương đã luôn luôn tham gia những vận động gây rối loạn do tâm ý ưa cướp bóc của những dân du mục chưa thuần tính với nông nghiệp.

Người Hồ nguyên là giống Hung nô, phân phân thành Đông vực Hồ và Tây vực Hồ. Cả hai đều ở phía Bắc Trung Quốc. Những cuộc tràn lấn của những người dân Hồ, Khương đợt này qua đợt khác tạo thành thuở nào kỳ đen tối cho lịch sử Trung quốc sau này: thời kỳ “Ngũ hồ loạn hoa”.

Như vậy chứng tỏ rằng việc quân Tây Lương của Đổng Trác phạm Tràng An không phải chỉ giản dị là yếu tố chính trị nội bộ. Nó còn bao hàm những yếu tố sâu rộng hơn như yếu tố Dân tộc và Văn Hóa. Văn Hóa biên duyên nhân thời cơ TT rối loạn nên quật khởi xung kích.Page 11

Trận Xích Bích là một quan kiện chính trị liên hệ tới yếu tố chia cắt và thống nhất. Giả sử Tào Tháo thắng hoặc không còn trận này thì thiên hạ đã thống nhất ngay mà không chia ba.

Nói đến trận Xích Bích, trước hết phải tìm hiểu hình thế của ba lực lượng dữ thế chủ động: Lưu Bị, Tôn Quyền, Tào Tháo.

Lưu Bị là người dân có chí lớn, đầu óc lãnh tụ, thà làm đầu gà còn hơn làm đít trâu. Cho nên nhiều dịp Tào Tháo muốn thu dụng Bị, Bị đều từ chối. Không những thế, Lưu Bị trải qua thuở nào gian lập đức, định chuyển sang quy trình lập công, bèn cấu kết với Đổng Thừa, định dùng thủ đoạn chính trị cung đình quật ngã Tào Tháo. Thua, Bị xin tá túc bên Viên Thiệu rồi Lưu Biểu. Thế của Bị sau vụ Đổng Thừa là một mất một còn với Tháo, chứ không thể dung tha nhau được nữa, dù yếu, dù mạnh, Lưu Bị cũng phải chống Tào Tháo đến cùng.

Phần Tôn Quyền ta nên phải liên hệ Quyền với Tôn Sách để nhận định.

Tôn Sách link với Viên Thuật. Thấy Tôn Sách gan dạ, anh hùng, Thuật trao lại bộ hạ cũ của Kiên cho Sách. Sách nhiều lần lập công lớn cho Thuật. Nhưng Thuật là người không sáng suốt, thưởng phạt bất minh, thiếu kĩ năng dùng người, quên lời đã hứa cùng Tôn Sách khiến Tôn Sách vô vọng. Sách nghĩ bụng, nếu cứ ở với Thuật, rồi ra không còn ngày mở mặt nên tính kế xin Thuật phái mình đi bình định Giang Đông. Căn cứ địa lý thời hậu Hán thì Giang Đông thuộc Dương Châu. Các quan thứ sử Dương Châu vẫn đồn thú tại Thọ Xuân (tức Thọ Huyện tỉnh An Huy ngày này). Thời gian này Thọ Xuân bị Viên Thuật chiếm giữ, thứ sử Dương Châu là Lưu Giao phải rời về Khúc A. Tuy quân lực thua sút Lưu Giao vẫn cầm cự dằng dai với Thuật.

Lúc Tôn Sách vượt sông sang, tình thế chuyển ngay, Sách có thiện chí xông xáo vượt mặt Lưu Giao. Toàn giải đất Giang Đông dọc theo bờ sông rơi vào tay Tôn Sách, Tôn Sách chụp thời cơ bỏ ngay Viên Thuật.

Tào Tháo bấy giờ chưa đủ lực nuốt Giang Đông, lại nhân có xích míc với Viên Thuật, Tháo mới ve vãn Tôn Sách bằng phương pháp dâng biểu xin vua phong cho Tôn Sách làm Ngô Hầu, xưng hiệu Thảo Nghịch tường quân.

Năm Kiến An đệ ngũ, đang khi trận chiến tranh Viên Tào gay go, hai bên cầm cự nhau, Tôn Sách nẩy ra ý định xuất quân qua sông vượt lên miền bắc việt nam; còn chưa kịp sẵn sàng sẵn sàng xong thì Sách bị bắn chết.

Đầu đuôi câu truyện bắn lén như sau: Tôn Sách qua Giang Đông, có quan Thái thú Ngô quận tên là Hứa Cống mật biểu về trào nói: Tôn Sách kiêu dũng, tránh việc để y ở ngoài, sẽ thành hậu họa. Sách bản ý hằng mong ước lập giang sơn riêng, nay nghe tin Hứa Cống muốn phá kế mình, nổi giận giết phăng Cống. Các môn khách của Cống thề phục thù, họ lẩn quất trong đám dân, gặp thời cơ Tôn Sách đi săn, mải đuổi thú, Sách đơn phương, độc mã lạc vào ngay ổ phục kích của môn khách nhà họ Hứa nên bị tên độc.

Ý định xuất binh của Sách, Tam Quốc Chí bản truyện nhận định rằng: Sách muốn đánh úp Hứa Đô nghênh giá Hiến Đế.

Tam Quốc Chí đã nói sai. Ta hoàn toàn có thể tìm nhiều lý lẽ để chứng tỏ sự sai lầm không mong muốn của Tam Quốc Chí bản truyện. Trước hết, Tào Tháo tinh thông binh sự, không đời nào lại bỏ trống hậu phương. Thứ nữa, Giang Đông với Hứa Đô so với Hà Bắc xa gấp 5, 6 lần, liệu quân Tôn Sách có tới nơi không, chứ chưa nói tới thắng hay bại. Tôn Sách giỏi quân sự chiến lược chắc chẳng mán xá đến thế. Ngoài ra, giành giựt một ông Thiên Tử trong tình trạng chính trị vũ trang đấu tranh lúc ấy thật quả không thiết yếu cho lắm.

Vậy tại sao Tôn Sách lại sở hữu ý định xuất binh? Độc giả Tam Quốc Chí phần lớn thường bỏ sót điểm này.

Nguyên lai, Trần Khuê, một vị quan cai trị cao cấp, trước sau quy phục Trung ương, ghét bọn Lã Bố, e khó bình định, nên vội vã đến dụ thuyết Lã Bố để phá hoại sự link Bố-Thuật. Mặt khác Khuê sai con là Trần Đăng yết kiến Tào Tháo, nói Lã Bố hữu dõng vô mưu, phản phúc vô thường, nên tìm cách nhử Bố vào bẫy. Gặp Trần Đăng, Tháo rất hài lòng, bèn phong cho Trần Đăng làm Thái Thú Quảng Lăng. Tháo còn nắm tay Đăng mà rằng: “Tôi giao toàn bộ cả miền Đông cho ông đó”. Ý nói Đăng hãy thâu thập bộ hạ chờ cơ làm nội ứng cho mình. Quả nhiên, cha con Khuê Đăng giúp được Tháo tiêu diệt Lã Bố. Tháo xin vua phong cho Đăng làm chức Phục Ba Tướng Quân.

Có lực lượng, danh nghĩa rồi, Trần Đăng mới dòm ngó đất Giang Đông của Tôn Sách, Tôn Sách 2, 3 lần chinh phạt Đăng đều thất bại vì kế hoạch du kích của Đăng. Lần này, Tôn Sách gắng sửa soạn kỹ lưỡng để quyết tiêu diệt địch, kẻ cứng cổ đó. Như vậy rõ ràng là Tôn Sách xuất binh đánh Trần Đăng chứ không phải đánh thẳng vào vị trí của Tháo. Việc chưa xong, Sách lâm nạn!

Đến đây, đời chính trị của Tào Tháo phạm phải một thất sách to lớn là lúc Tôn Sách tử nạn, Tháo lại điều động Trần Đăng đi nhậm chức Thái thú Đông Thành, thành thử Tháo đã nhổ hộ cho Giang Đông cái răng đau nhức. Đến nỗi về sau thua trận Xích Bích, Tháo phải nói:

– Ân hận đang không nghe lời Trần Nguyên Long!

Cái thất sách ấy là vì Tào Tháo muốn, vì sợ kĩ năng chính trị đấu tranh khôn khéo dẻo dai của Trần Đăng có địa phận Đông Ngô thì còn nguy hơn Tôn Quyền, hay là một thất sách thật sự, khó lòng mà đoán biết được.

Tôn Sách mất, Tôn Quyền kế vị. Công việc trước mắt của Tôn Quyền là: Chỉnh đốn những vùng Giang, Triết, Hoãn, Chương, chiếm đất của Hoàng Tổ mở mang sang những vùng Đông Nam tỉnh Hồ Bắc, miền Tây đến Hán Khẩu tiếp giáp Gia Lăng và Tương Dương. Trong lúc Tôn Quyền tiến hành mạnh mẽ và tự tin công cuộc thống nhất khu vực mình thì Tào Tháo khởi binh đánh Lưu Biểu. Bản chất Lưu Biểu là một văn nhân nhu nhược, giữa thời nhiễu nhương mà Biểu chỉ muốn ngồi yên nhìn thành bại, mong làm kẻ bắt cá. Chủ trương bất động, thời cơ ăn sẵn không thể lâu dài được.

Tháng 7 năm Kiến An thứ 13, Tào Tháo chinh phạt phía nam, vây Kinh Châu, Lưu Biểu lo phiền lâm bệnh chết. Con trai lớn của Lưu Biểu là Lưu Kỳ bị thủ đoạn ngoại thích truất phế, tống ra trấn giữ Giang Hạ. Em Kỳ là Lưu Tông lên thay. Lưu Tông cùng bọn tay sai không hoàn toàn có thể chống lại quân Tào nên đầu hàng vô Đk ngay lúc binh Tào tới Tân Dã. Lưu Bị lúc ấy đóng binh tại Phàn Thành bờ sông Tương Dương, phải vượt qua sông bỏ chạy về phía Tây Nam.

Việc này sách Tam Quốc Chí Tiên Chủ truyện chép: “Lưu Bị bỏ đi, Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị sửa soạn công kích Lưu Tông để chiếm Kinh Châu, Lưu Bị nói “Ta không nỡ”.

Chép thế có phần tiểu thuyết hóa khó xác thực. Đành rằng đương thời Tương Dương rối loạn, khắc phục Lưu Tông hoàn toàn có thể thuận tiện và đơn thuần và giản dị, nhưng đại binh Tào Tháo rầm rập kéo đến thì sao? Gia Cát Lượng thường thận trọng, không lẽ lại đi làm việc chuyện phiêu lưu để rồi không còn đất mà chôn ư?

Lâm vào cái cảnh “trời chiều, đường tận”, Lưu Bị mang theo lực lượng của tớ cùng với một số trong những dân chúng tị nạn lếch thếch chạy đến Hạ Khẩu nhờ vả Lưu Kỳ sau khi vừa thoát Đương Dương Trường Bản.

Nếu tình trạng này kéo dãn, chắc Lưu Bị phải chết. Bất ngờ xuất hiện sự chuyển vị trí hướng của Giang Đông. Tôn Quyền cùng Lưu Bị liên minh, Bị như cây khô gặp nước.

So sánh tư cách chính trị giữa Tôn Quyền và Lưu Bị, Tào Tháo gờm Lưu Bị hơn Tôn Quyền. Huyền Đức tuy nhiên bao lần chiến bao lần bại, nhưng Tháo lúc nào thì cũng lưu ý Lưu Bị hơn bọn Viên Thiệu, Lã Bố, Tôn Sách, Tôn Quyền một bậc. La Quán Trung miêu tả tâm ý Tào Tháo riêng với Lưu Bị như sau:

Tháo và Huyền Đức cùng ngồi nhờ vào bao lơn ngắm mai. Tháo hỏi: “Sứ quân có biết Rồng nó biến hóa ra làm sao không?”

Huyền Đức nói: “Tôi không được tường”

Tháo nói: “Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay lúc thì nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù, lúc nhỏ thì thu hình nép cánh, khi bay ra thì liệng trong trời đất, khi ẩn thì nấp ở dưới sông. Nay đang ngày xuân, Rồng gặp thời biến hóa cũng như lúc người ta đắc chí, tung hoành bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời. Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh hùng đời nay hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.”

Huyền Đức thưa: “Bị này mắt thịt, biết đâu được anh hùng?”

Tháo nói: “Huyền Đức tránh việc nhún mình quá”

Huyền Đức nói: “Bị này được nhờ ơn Thừa tướng làm quan trong triều, anh hùng trong thiên hạ thực quả không biết”.

Tháo nói: “Đã đành không biết mặt, nhưng cũng nghe tiếng chứ.”

Huyền Đức nói: “Viên Thuật ở Hoài Nam, binh lương nhiều hoàn toàn có thể gọi là anh hùng được.”

Tháo cười: “Xương khô trong mả, chỉ nay mai là ta bắt được”.

Huyền Đức lại nói: “Anh của Viên Thuật là Viên Thiệu ở Hà Bắc, bốn đời làm Tam Công có nhiều nô lệ cũ, lúc bấy giờ như con hổ dữ hùng cứ ở Ký Châu, bộ hạ nhiều tay tài giỏi, hoàn toàn có thể cho là anh hùng được.”

Tháo lại cười nói: “Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích mưu mẹo mà không quyết đoán, thao tác lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì quên mình thì sao gọi là anh hùng?”

Huyền Đức lại nói: “Có một người nổi tiếng trong đám kẻ tuấn kiệt, uy khắp cả chín châu là Lưu Cảnh Thăng hoàn toàn có thể cho là anh hùng?”

Tháo lại cười: “Lưu Biểu có hư danh nhưng không còn thực tài, không phải anh hùng.”

Huyền Đức lại nói: “Có một người sức lực đương khỏe, đứng đầu xứ Giang Đông là Tôn Bá Phù, hẳn là anh hùng.”

Tháo nói: “Tôn Sách nhờ có nổi tiếng của bố, không phải anh hùng.”

Huyền Đức hỏi: “Lưu quý Ngọc ở Ích Châu liệu có phải là anh hùng không?”

Tháo cười: “Lưu Chương tuy là tôn thất, nhưng chỉ là con chó giữ nhà, sao gọi là anh hùng được.”

Huyền Đức lại nói: “Thế bọn Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại thì thế nào?”

Tháo vỗ tay cười to: “Lũ tiểu nhân nhung nhúc ấy thì nói lên làm gì”.

Huyền Đức nói: “Ngoài những người dân ấy ra, Bị thực không biết ai nữa”.

Tháo nói: “Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có tài năng bao bọc được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia.”

Huyền Đức mới hỏi: “Ai hoàn toàn có thể xứng danh được như vậy?”

Tào Tháo lấy tay trỏ Huyền Đức rồi lại trỏ vào mình mà nói rằng: “Anh hùng trong thiên hạ giờ đây chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi.” Huyền Đức nghe nói giật nẩy mình, cái thìa, đôi đũa đương cầm ở tay rơi cả xuống đất.

Đánh giá Tôn Quyền quá thấp, đồng thời không dự liệu được trí mưu quyền biến thiên tài của Gia Cát Lượng nên Tào Tháo ghi lên trang sử hoạt động và sinh hoạt giải trí chính trị của Tháo một vết đen quá rộng và quá sâu vì thua quân ở Xích Bích.

Lưu Biểu chết, tin đến Giang Đông. Lỗ Túc liền nói với Tôn Quyền:

– Kinh Châu là trọng địa, xin chúa công cho tôi đi viếng tang nhân tiện dò xét tình hình. Nếu Lưu Bị và Lưu Biểu không còn hiềm khích gì với nhau thì ta cùng họ link, nhược bằng họ bất hoà, tôi sẽ có được chủ ý khác.

Tôn Quyền bằng lòng.

Lỗ Túc liền ngược Giang Tây tới Hán khẩu thì nhận được tin Tào Tháo đang tiến quân khuynh hướng về phía Kinh châu. Lỗ Túc vội vã đi gấp ngày đêm, mới đến Nam quận đã có người phi báo là Lưu Tông hàng Tào rồi và Lưu Bị phải chạy về Nam. Lỗ Túc liền tắt đường nghênh đón Lưu Bị ở Trường Bản. Gặp Bị, Túc khuyên Bị nên liên phù thích hợp với Tôn Quyền. Gia Cát Lượng nói: “Sự gấp, tôi xin đi cầu cứu Tôn tướng quân”. Gia Cát Lượng rời Hán khẩu đi gặp Tôn Quyền tại Cửu giang.

Lúc này bên Tôn Quyền đang sẵn có cuộc tranh luận gay go để quyết định hành động chiến hay hàng. Theo tài liệu sử thì phe chủ hàng chiếm hầu hết trong hội nghị. Phe chủ hàng lập luận:

I- Tào Tháo khoác danh là tướng nhà Hán, nếu kháng cự thì khác gì phản kháng Trung ương.

II- Tào Tháo nắm trọn trong tay lực lượng thuỷ binh của Kinh châu thêm bộ binh rất mạnh, thế núi sông hiểm trở của Giang đông không hề kĩ năng làm trở ngại binh Tào nữa.

III- Quân Tào đông gấp mười quân Ngô.

Chủ trương chiến đấu của Lỗ Túc bị phe chủ hàng tới tấp đập vụn. Tôn Quyền chưa chắc như đinh quyết định hành động ra sao thì Gia Cát Lượng đến nơi. Ấy là: Chỉ bởi con thuyền Gia Cát chạy. Khiến cho tướng sĩ giặc Tào tan.

Sự hiện hữu của Khổng Minh ở hội nghị Giang đông, La Quán Trung miêu tả linh động trong hội “Thiệt chiến quần nho” như sau:

Túc dẫn Khổng Minh đến dưới trướng, đã thấy bọn Trương Chiêu, Cố Ung toàn ban văn võ trên hai chục người, mũ cao đai rộng, y phục chỉnh tề ngồi có thứ tự rồi. Khổng Minh chào hỏi từng người, thông tính danh đâu nhé, rồi đến ngồi trên ghế tân khách.

Bọn Trương Chiêu thấy Khổng Minh tưởng tượng sáng sủa, mặt mũi khôi ngô biết người này tất là đi thuyết khách. Trương Chiêu mới gợi trước rằng:

– Chiêu tôi là một kẻ học trò ngu hèn bên Giang đông, lâu nay vẫn được nghe tiếng tiên sinh nằm khểnh trong Long Trung, ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, lời ấy chẳng biết thực hư?

Khổng Minh đáp:

Phải, Lượng tôi cũng luôn có thể có hợm mình mà ví như vậy.

Chiêu lại nói:

Mới đây tôi nghe Lưu Dự châu 3 lần cầu đến tiên sinh ở trong lều tranh, may được tiên sinh như cá gặp nước, những toan thu sạch cả Kinh Tương, nay chỉ có một buổi sáng mà về tay Tào Tháo hết chẳng biết thế là ý làm thế nào?

Khổng Minh nghĩ thầm rằng: Trương Chiêu là một tay mưu sĩ số 1 của Tôn Quyền, nếu mình không áp hòn đảo được hắn thì sao thuyết phục Tôn Quyền? Bèn đáp rằng: Kể lấy đất Hán Thượng, tôi coi dễ như trở bàn tay, hiềm vì chủ ta là Lưu Dự Châu, muốn làm điều nhân nghĩa, không nỡ cướp cơ nghiệp của người đồng tông, cho nên vì thế nhất định không lấy. Lưu Tông là một đứa trẻ thơ tin nghe lời nịnh, bí mật hàng Tào cho nên vì thế mới khiến cho Tào Tháo ngông cuồng. Nay chủ ta đóng quân ở Giang Hạ sẽ có được kế khác, những kẻ tầm thường hiểu sao được.

Chiêu nói: Nếu thế thì tiên sinh lời nói không song song với việc làm rồi. Tiên sinh đã ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị mà Quản Trọng rất mất thời hạn rồi giúp Hoàn Công bá được chư hầu, định được thiên hạ; Nhạc Nghị rất mất thời hạn rồi giúp nước Yên đương suy yếu mà hạ được hơn bẩy mươi thành nước Tề. Hai người ấy thật có tài năng tế thế. Tiên sinh thì trước ở trong lều tranh, chỉ cười phong cợt nguyệt, xếp gối ngồi cao, nay đã theo Lưu Dự châu thì phải nên vì dân mà mưu lợi, bỏ điều hại, dẹp trừ kẻ loạn tặc mới phải chớ. Vả tôi xem Lưu Dự Châu lúc không được tiên sinh thì còn tung hoành đây đó, chiếm giữ thành trì, nay được tiên sinh ai cũng mong, đến đứa trẻ lên ba cũng phải cho đó là hổ sinh cánh, nhà Hán sắp sửa lại hưng, họ Tào sắp đổ. Cựu thần trong triều đình, ẩn sĩ trong rừng rú, ai cũng chờ xem, tưởng tiên sinh với Lưu Dự Châu sắp xua tan mây mù trên trời, để thiên hạ lại được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, cứu vớt dân thoát khỏi cơn nước lửa, giúp sức thiên hạ yên ổn làm ăn, đó đó là thời gian hiện nay vậy. Ai ngờ từ khi tiên sinh về với Dự Châu mục, quân Tào mới đến đã quẳng giáp buông gươm, trông thấy bóng là chạy. Trên không báo được ơn Lưu Biểu để yên thứ dân, dưới lại chẳng giúp được con côi giữ lấy bờ cõi, lại bỏ Tân Dã chạy khỏi Phàn Thành, thua Đương Dương chạy ra Hạ Khẩu, chẳng có lấy chỗ dung thân. Thế chẳng hóa ra Dự Châu từ khi được tiên sinh lại không bằng trước ư? Quản Trọng, Nhạc Nghị chắc cũng như vậy đó? Đó là mấy lời quê kệch xin tiên sinh đừng chấp.

Khổng Minh nghe xong cười ha hả mà rằng:

– Cái chí khí của chim Bằng, những loài chim Sẻ há biết được sao? Ví như người bệnh nặng, trước hết phải cho uống nước cơm, nước cháo, thuốc thang, lúc nào phủ tạng điều hòa, thân thể hồi sinh bấy giờ mới cho bổ bằng cá thịt. Trị bằng thuốc mạnh, thì gốc bệnh mới tiệt, còn yếu đã trị ngay bằng thuốc mạnh, bổ ngay bằng vị ngon thì khó lòng chữa khỏi được. Chủ ta, trước thua ở Nhữ Nam đến nhờ Lưu Biểu, quân không đầy một ngàn, tướng chỉ có Quan, Trương, Triệu đó đó là lúc đang nguy cập. Tân Dã là một huyện nhỏ, hẻo lánh, dân cư thưa thớt, lương thực rất ít, chủ ta chẳng qua đến nương nhờ tạm này mà thôi, có phải muốn khư khư ngồi giữ cái xó ấy đâu? Trong tình hình quân sĩ không sẵn, thành quách không bền, quân không rèn luyện, chạy ăn từng bữa, thế mà lửa cháy Bác Vọng, nước ngập Bạch Hà khiến bọn Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân phải lòng run mật vỡ, thiết tưởng Quản Trọng, Nhạc Nghị dùng binh tất đã hơn gì. Đến như Lưu Tông hàng Tào Tháo, Dự Châu hoàn toàn không biết, vả lại không nỡ nhân lúc loạn mà cướp lấy cơ nghiệp người đồng tông. Thật là đại nhân, đại nghĩa. Còn trận thua ở Đương Dương, vì có vài vạn dân, già trẻ dìu dắt đi theo không nỡ bỏ nên mỗi ngày chỉ đi được 10 dặm, đành rằng chịu thua; ngoạn mục đến lấy Giang Lăng, cam chịu thất bại, ấy cũng là đại nhân đại nghĩa vậy. Còn như ít không địch được nhiều, thì được thua chỉ là việc thường thôi. Ngày xưa Cao Hoàng thua luôn với Hạng Vũ, sau chỉ một trận ở Cai Hạ là thành công xuất sắc, đó không phải là mẹo tài của Hàn Tín ư? Tín thờ Cao Tổ đã lâu, cũng không mấy khi thành; chính bới kế lớn nhà nước, xã tắc an nguy đều đã có chủ trương. Không như cái lũ khoác lác hư danh, bịp bợm, ngồi một xó mà lý thuyết suông thì không còn ai bằng; đến lúc có việc thì trăm Phần Trăm chẳng được phần nào thật đáng cho thiên hạ chê cười.

Bị thuyết một hồi, Trương Chiêu không hề thở ra được câu nào nữa. Lại có một người cất tiếng hỏi rằng:

– Nay Tào Tháo quân hàng trăm vạn, tướng ước ngàn viên, uy thế như rồng như hổ nuốt chửng Giang Đông, ông bảo sao?

Khổng Minh trông xem ai, thì là Ngu Phiên, Khổng Minh nói:

– Tào Tháo thu quân rơm rác của Viên Thiệu, nhặt quân ô hợp của Lưu Biểu, dù có mấy trăm vạn cũng không đáng sợ gì hết.

Ngu Phiên cười mát.

Quân thua ở Đương Dương, kế cùng ở Hạ Khẩu, đi van xin cứu viện không xong còn nói không sợ, thật là khoác lác để bịp người đó thôi.

Khổng Minh đáp:

Lưu Dự Châu đem vài ngàn quân nhân nghĩa, địch sao lại được trăm vạn quân tàn bạo? Lui về giữ Hạ Khẩu là để chờ thời cơ đó. Nay Giang Đông, binh nhiều, lương đủ, lại sở hữu sông Trường Giang hiểm trở, thế mà còn xui chủ uốn gối hàng giặc, không nghĩ thiên hạ chê cười. Do này mà suy thì Lưu Dự Châu thật không sợ gì giặc Tháo vậy.

Ngu Phiên chịu cứng.

Lại có người lên tiếng hỏi:

– Khổng Minh muốn uốn lưỡi Tô Tần, Trương Nghi, sang làm thuyết khách ở Giang đông này chăng?

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Bộ Trắc bèn đáp rằng:

– Bộ Tử Sơn chỉ biết Tô Tần, Trương Nghi là biện sĩ, chuyên nghề nói mép chứ chưa chắc như đinh Tô Tần, Trương Nghi cũng là những trang hào kiệt. Tô Tần đeo ấn làm tướng sáu nước, Trương Nghi hai lần làm tướng nhà Tần đều phải có tài năng giúp người gây cơ nghiệp, đâu thèm so sánh với những kẻ hay sợ thế mạnh, lấn người yếu, tránh kiếm lẩn đao. Các người mới nghe thấy Tào Tháo phao tin đã vội xin hàng rồi, còn dám cười Tô Tần, Trương Nghi sao được.

Bộ Trắc im ngay không đủ can đảm nói gì nữa.

Lại có một người hỏi rằng:

– Thế Khổng Minh cho Tào Tháo là thế nào?

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Tiết Tung, bèn đáp:

– Tào Tháo là giặc Hán, can gì phải hỏi.

Tung nói:

– Ông lầm rồi, nhà Hán truyền ngôi kế thế mãi đến nay số trời sắp hết. Giờ thiên hạ chia ba, Tào Tháo đã nắm 2 phần rồi, nhân tâm ai cũng qui phục. Duy có Lưu Dự Châu không biết thiên thời, muốn gượng tranh với Tào Tháo, khác nào trứng chọi với đá sao chẳng thất bại.

Khổng Minh quát lên rằng:

– Tiết văn Kính sao dám thở ra câu vô quân vô phụ ấy? người ta sinh ra ở đời phải lấy trung hiếu làm cốt, ông đã làm tôi nhà Hán, nếu kẻ nào phản nghịch phải thề giết nó đi mới là phải đạo. Nay tổ tôn Tào Tháo đời đời ăn lộc nhà Hán. Tháo đang không nghĩ báo ơn, lại mang lòng phản nghịch, thiên hạ đều oán ghét cả, ông lại dám đổ cho số trời, thật là con người vô quân vô phụ không xứng danh bàn luận. Chớ có nói nữa.

Tiết Tung đỏ mày xây mặt câm miệng như hến. Lại một người hỏi rằng:

Tào Tháo tuy rằng mượn tiếng thiên tử để sai khiến chư hầu nhưng cũng còn là một con cháu ông Tướng Quốc Tào Tham rất mất thời hạn rồi. Lưu Dự Châu vẫn tự xưng là loại dõi Trung Sơn Tĩnh Vương nhưng không còn bằng cớ, hiện mắt trông thấy chỉ là một người dệt chiếu, bán giầy, so sánh với Tào Tháo sao được.

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Lục Tích liền cười nói rằng:

– Ông liệu có phải là người đánh cắp quýt ở trong buổi tiệc của Viên Thiệu đó không. Xin hãy ngồi nghe ta giảng giải cho: Tào Tháo đã là con cháu Tướng Quốc họ Tào, thì là đời đời làm tôi nhà Hán, nay dám chuyên quyền ngang ngược khinh nhờn cả vua, như vậy hẳn không những là vô quân và lại là khinh cả tổ tiên mình. Không những là loạn thần nhà Hán mà còn là một người con bất hiếu của tớ Tào nữa. Lưu Dự Châu đường đường một đấng tôn thất, đương kim nhà vua hiện đã xét gia phả và phong tước cho, sao dám bảo là không còn vị trí căn cứ. Và đức Cao Tổ rất mất thời hạn rồi xuất thân làm đình trưởng mà sau được thiên hạ thì dệt chiếu bán giầy có gì là nhục. Kiến thức ông như trẻ con, tránh việc ngồi rỉ tai với cao sĩ.

Lục Tích ngồi im thin thít.

Lại có người hỏi rằng:

– Khổng Minh chỉ được cái già mồm lấn lẽ, không phải là chính luận, không cần dài dòng làm gì. Hãy xin hỏi Khổng Minh đã học những sách gì. Khổng Minh nhìn xem ai thì là Nghiêm Tuấn liền đáp:

– Tìm từng chương, dò từng câu chỉ là bọn hủ nho mà thôi, sao hoàn toàn có thể xây dựng được nước non cơ nghiệp? Vả như rất mất thời hạn rồi Y Doãn cầy ở đất Sằn, Tử Nha câu trên sông Vị, Trương Lương, Trần Bình, Đặng Vũ, Cảnh Cam đều phải có tài năng giúp vua, giúp nước cả, mà cũng không cần xem xét ngày thường học những sách vở gì. Có đâu lại bắt chước bọn thư sinh, bo bo sách vở, cãi đen bàn trắng, múa văn khua bút đó ư.

Nghiêm Tuấn cúi đầu tiu nghỉu ngồi im. Lại có một người lớn tiếng nói:

Ông chỉ được việc nói khoác là giỏi, vị tất đã có thực học, tôi chỉ sợ bọn nhà nho cười cho thôi.

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Trình Đức Khu ở Nhữ Nam liền nói:

– Nho cũng luôn có thể có Nho quân tử, cũng luôn có thể có Nho tiểu nhân. Nho Quân tử thì trung vua yêu nước, giữ chính, ghét tà, chuyên làm những điều quyền lợi chung, tiếng để đời sau. Còn như loại Nho tiểu nhân thì chỉ cặm cụi văn chương miệt mài nghiên bút; còn trẻ thì làm phú, đầu bạc thì đọc kinh, dưới bút dầu có nghìn lời, trong bụng không được một mẹo. Xem như Dương Hàng, văn chương có tiếng một đời mà khuất mình đi theo Vương Mãng rồi cũng đến đâm đầu xuống lầu mà chết. Thế gọi là Nho tiểu nhân, dẫu ngày làm nghìn câu thơ cũng luôn có thể có ích gì đâu.

Trình Đức Khu cũng ứ cổ nốt.

Chúng thấy Khổng Minh ứng đối như nước chẩy, cũng sợ mất vía. Lúc này còn tồn tại hai người là Trương Ôn, Lạc Thống sắp vào muốn hỏi. Bỗng bên phía ngoài có một người chạy vào quát to lên rằng:

– Khổng Minh là bậc anh tài đời nay, những người dân lấy môi mép vặn người ta, đó không phải là kính khách. Đại quân của Tào Tháo đã tới bờ cõi, tìm kế chống giặc chẳng tìm, cứ ngồi đấu khẩu như vậy ích gì?

Các tướng nhìn xem ai, thì là Hoàng Cái biểu tự Công Phúc.

Sau khi Gia Cát tiêu diệt phe chủ hàng, Tôn Quyền lòng đã muốn đánh nhưng vẫn chưa quyết. Quyền cho những người dân mời Chu Du lại thương nghị. Chu Du quyết định hành động nghênh chiến. Du đưa ra 3 điểm chiến mà Đông Ngô hoàn toàn có thể thắng lợi.

1- Tào Tháo nên phải thực thi một cuộc trận chiến tranh tốc quyết vì Mã Siêu, Hàn Toại vẫn là mối lo sau sống lưng của Tào Tháo.

2- Nhân dân Kinh Châu chưa hoàn toàn qui phục họ Tào.

3- Giữa ngày đông lương thảo khan hiếm, khí hậu cũng không phù thích hợp với quân Bắc phương.

Quyền thấy Chu Du cương quyết như vậy mới cầm kiếm chém xuống đất ra lệnh cấm bàn chuyện đầu hàng.

Binh lực đương thời của hai bên rất so le. Bắc quân riêng lực lượng Tào Tháo đã có ngót hai mươi vạn, thêm vào đó bẩy tám vạn quân Kinh Châu.

Bên Đông Ngô, quân Lưu Bị có một vạn, quân Lưu Kỳ một vạn, quân Chu Du, Trình Phổ chừng hai vạn, Lỗ Túc thâu thập được thêm một vạn. Như vậy là một chọi sáu!

Trận đánh lớn số 1 xẩy ra ở huyện Gia Ngư, khu vực Xích Bích. Kết quả Tào Tháo đại bại phải rút lui và lưu Tào Nhân chống giữ ở Giang Lăng. Chu Du thừa thắng đánh tràn. Tào Nhân phải bỏ Giang Lăng mà chay. Cả một giải lưu vực trường giang mất hẳn tung tích Bắc quân. Hình thế Nam Bắc phân lập bắt nguồn từ đó.

Trận Xích Bích phá vỡ tan tành kế hoạch thống nhất toàn quốc của Tào Tháo, ổn xác định thế Tôn Quyền ở Giang Nam, đồng thời cũng tạo cho Lưu Bị thời cơ lấy bàn đạp Kinh Châu tiến vào Ích Châu, từ chỗ vẫn đi nương nhờ người khác, đến chỗ có một thế lực riêng không liên quan gì đến nhau vững mạnh. Trận Xích Bích thực là then chốt cho việc hình thành của cái thế chia ba chân vạc.

7.1. Chu Du

Độc giả Tam quốc thường nhìn Chu Du là một nhân vật tuổi trẻ tài cao, nhưng tính khí bồng bột, hẹp hòi ghen ghét.

Lối nhìn đó là bởi ảnh hưởng của Tam Quốc Chí diễn nghĩa qua câu truyện đấu khí giữa Chu Du và Gia Cát Lượng. Du thua, tức đến nỗi thổ máu mà chết, lúc sắp chết Du có than rằng: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?”.

Thật ra Chu Du là con người rất có tu dưỡng, nhiều mưu trí và tính tình khiêm cung hòa nhã.

Tôn Quyền đặt ngôi vị Chu Du ở trên lão tướng Trình Phổ, Phổ không bằng lòng, thế mà Chu Du đã đem độ lượng và tài cán của tớ khuất phục được Trình Phổ. Phê bình về Chu Du, Trình Phổ đã phải nói: Giao du với Chu Công Cẩn như uống rượu ngọt, say lúc nào không biết.

Nhưng chỉ có hai người thời đó nhìn nhận nổi Chu Công Cẩn là Tào Tháo và Khổng Minh. Cho nên ở trận Xích Bích cả Gia Cát Lượng và Tào Tháo đều ra sức tranh thủ Chu Du. Gia Cát thì vận dụng Lỗ Túc, Tào Tháo thì vận dụng Tưởng Cán.

Chu Du chết sớm, ảnh hưởng tai hại cho cục diện ba nước không nhỏ. Thiết tưởng Tôn Quyền có tiếc Chu Du mà nói: “Ta mất Chu Du thì nghiệp đế của ta cũng hỏng” thì cũng không lấy gì làm quá đáng.

7.2. Lỗ Túc

Lỗ Túc đáng kể như một nhân vật khả ái nhất Tam quốc.

Tử Kính tuy không còn những biệt tài nổi trội như Cố Ung, Tưởng Uyển, Tuân Úc, nhưng ông cũng rất thông hiểu chính trị, ngoại giao, quân sự chiến lược và rất thận trọng mọi khi vận dụng định kiến của tớ. Thêm nữa Lỗ Túc là người dân có phong độ, trung, dũng, trí, kiệm, có tu dưỡng nhân nghĩa lễ tín.

Căn cứ vào tình thế đương thời mà bàn thì chủ trương Ngô Thục liên minh của Lỗ Túc thật đúng chuẩn. Thâm ý trong đường lối liên minh với Thục của Lỗ Túc là: “Gây cho Tháo nhiều kẻ địch, để xây dựng thêm vây cánh cho Đông Ngô”. Bởi vì so sánh với lực lượng Ngụy và lực lượng Đông Ngô thì Ngụy thừa sức nuốt sống Đông Ngô, nếu không còn những lực lượng khác khiên chế Ngụy.

Thế chia ba chân vạc do Lỗ Túc góp phần một phần cực to tát. Ông dám khuyên Tôn Quyền cho Lưu Bị mượn Kinh Châu để làm tư bản chính trị. Giả thử Tôn Quyền không nghe Lỗ Túc, đương nhiên không còn nước Thục. Giả thử Lưu Bị không kiến thiết nổi Thục thì liệu Đông Ngô có tại vị nổi với Ngụy chăng?

Tôn Quyền phê bình Lỗ Túc nói:

– “Khuyên ta cho Huyền Đức mượn Kinh Châu là nơi kém nhất của Tử Kính”. Nói như vậy, Quyền chỉ nghĩ đến cừu địch là Thục mà không kể chi đến Ngụy, chỉ nghĩ đến tức bực trước mắt mà ngoạn mục đến mối rình rập đe dọa xa.

Trí lực ngắn ngủi của Tôn Quyền cũng như mấy võ tướng Quan Vũ và Lã Mông đã gây thành đường lối ngoại giao ngã xuống, trái ngược với lòng mong mỏi của Tử Kính, không ngừng nghỉ dàn xếp để những cuộc quyết đấu giữa Ngô – Thục không xẩy ra.

Tại Đông Ngô, duy Chu Công Cẩn mới nhận nổi giá trị của Lỗ Túc, cho nên vì thế lúc Du sắp mất, Tôn Quyền hỏi Du, ai khả dĩ thay thế. Chu Du nói: “Lỗ Túc là người trung liệt, lâm sự không cẩu thả”. Đề nghị cho Lỗ Túc thay mình, chứng tỏ Chu Du cũng là người rất nhiệt thành với đường lối ngoại giao link với Thục lắm. Riêng lời ấy đủ lột hết sắc thái con người Lỗ Tử Kính.

7.3. Cố Ung

Bất cứ đường lối chính trị nào, hình thế chính trị nào đều liên hệ với một quyền lực tối cao thống trị thì mới mong lâu dài, bền vững.

Thời Tam quốc, Ngụy, Ngô, Thục do đường lối chính trị rất khác nhau, hình thể chính trị rất khác nhau, nên quyền lực tối cao thống trị cũng sai biệt.

Nước Ngụy quyền lực tối cao thống trị để bình định một tình trạng đã hỗn loạn đến cực độ nên phải vận dụng đạo hình danh của pháp gia, phải có những giải pháp mạnh, thủ đoạn nhiều trí thuật hơn từ ái nhân nghĩa.

Nước Thục vì dân tình hiểm ác, nên quyền lực tối cao thống trị tuy chủ trương nhân nghĩa nhưng cũng không thể không dùng đến đường lối mãnh liệt của pháp gia. Ở đây quyền lực tối cao thống trị mang tính chất chất chất “pháp đa nho thiểu”, “pháp nho kiêm dụng”. Nước Ngô nhờ địa lý phì nhiêu, dân tình khoan hậu, nhờ tâm ý nhất trí để chống riêng với dị tộc của dân chúng, nên quyền lực tối cao thống trị ở đây chỉ việc một chủ trương thi hành nhân ái, khoan hình giảm chính, tóm lại Đông Ngô thuần dụng đạo trị của nho gia để ổn định xã hội. Xã hội Đông Ngô bấy giờ so với những khu vực khác đáng gọi là thiên đường.

Công lệnh vận dụng trị đạo của nho gia ở Đông Ngô của người nào?

– Của Tôn Quyền?

– Không đúng.

– Của thừa tướng Cố Ung đó.

Lịch sử tuy không để ý quan tâm mấy đến ông, thậm chí còn còn xếp Cố Ung đừng hàng dưới Trương Chiêu một bậc. Chuyển sang diễn nghĩa thì những người dân như ông không còn chuyện lạ gì để nhà văn miêu tả mê hoặc thì lại càng bị lu mờ hơn.

Thực ra riêng với Đông Ngô, Cố Ung là người dân có công lao lớn số 1. Sở dĩ ông gần như thể bị quên lãng là vì chức vị của ông là chức vị thủ tướng hành chính, trong lúc đương thời Tam quốc chỉ trọng những tranh phong chính trị, quân sự chiến lược.

Tôn Quyền tuy không còn đại bản lĩnh, nhưng ở vị thế lãnh tụ. Sở trường của Quyền ở đoạn: Biết dụng người, biết tin và biết phân phối. Quyền rất nể Cố Ung, nhận thấy ở Ung một tài năng xuất chúng về nội chính nên phó thác trách nhiệm này cho Ung tới 19 năm trường.

Hoàng Vũ tứ niên, Cố Ung từ giã mẹ già đi nhận lãnh chức vụ, Quyền ra tận ngoài tiếp đón, rồi lại gọi Thái tử tới lậy chào, trong lúc Trương Chiêu tuổi lớn, tiếng xa mà Chiêu không được Quyền dùng ở ngôi vị này. Tại sao?

Tại Quyền nhận thấy Chiêu khí lượng hẹp hòi hay câu nệ câu chấp, một lần Quyền và Chiêu xích mích. Trương Chiêu cáo ốm không đến chầu. Tôn Quyền hối hận đến tạ lỗi, Chiêu cũng không ra, đến nỗi Quyền phải sai người đốt nhà Chiêu mới chịu ra. Do đó nhiều lần, mọi người khuyên Quyền đặt Chiêu vào ngôi vị Thừa tướng Quyền đều lờ đi. Khi thừa tướng Tôn Thiệu chết, mọi người lại đề cập đến Trương Chiêu thì Quyền từ chối khéo: “Bây giờ đương lúc gay go, chức cao thì trách nhiệm thêm nặng, lão thần đã già tránh việc phiền nhiễu ông ta làm gì”.

Cố Ung đủ sở trường của Trương Chiêu, nhưng Ung hơn Chiêu ở điểm không còn những sở đoản như Chiêu. Ung cương trực mà ý khí không loạn, nói thẳng, ưa điều hợp lý, mà vẫn giữ được thái độ khiêm nhượng, hòa nhã, luận đoán, kiến giải quán quân nhất đều đúng chuẩn, đối xử với những người rất chân thành.

Ở chức Thừa tướng, tất phải có phong độ đại thần, công bình, dung hợp, tầng trên kiểm soát và điều chỉnh trăm quan, tầng dưới yêu mến bảo vệ trăm họ.

Những điều Trần Bình nói về trách nhiệm tể tướng, đại thần:

– “Trên thì phò thiên tử, điều hòa âm khí và dương khí, thuận tứ thời, dưới thì nuôi vạn vật cho no đủ, sử dụng cho đúng mức, ngoài thì chấn áp tứ di, trong thì vỗ về trăm họ”. Cố Ung đều phải có cả.

Cố Ung bao giờ cũng dùng nhân chính. Lần Tôn Quyền đi khảo sát dân tình, Cố Ung đã thảo cho Quyền một tờ lệnh như sau:

– “Nạn binh đao đã lâu ngày, làm cho dân gian bê trệ việc ruộng nương cày cấy, chồng con bố mẹ không đủ nuôi thương nhau, ta rất lấy làm buồn. Nay giặc đã tạm yên, bên phía ngoài không còn gì lo ngại, vậy truyền cho dân chúng ai về nhà nấy mà nghỉ ngơi, tiếp tục canh nông, phụng dưỡng tôn tộc”.

Năm Xích Ô thứ ba, Cố Ung lại thay Tôn Quyền thảo chiếu lệnh:

– “Vua không còn dân không lập, Dân không thóc gạo không sống. Gần đây dân bị phiền nhiễu vì binh dịch nên thóc không sinh sản nhiều. Thêm nạn quan tham lại nhũng chiếm đoạt của dân, khiến dân càng cùng khổ. Nay ra lệnh: bất kể kẻ nào thao tác phi pháp đều gia tội nặng”.

Nhờ Cố Ung, Tôn Quyền chẳng còn phải lo gì đến hậu phương nữa.

7.4. Luận về Tôn Ngô

Cục thế Tam quốc, Tôn Ngô chiếm toàn bộ Giang đông. Địa bàn Giang đông hẹp hơn Ngụy, tốt hơn Thục. Nhân tài Giang đông không thiếu. Thế mà thanh thế Giang đông không lúc nào vượt nổi khu vực mình, suốt bao nhiêu năm chỉ đứng vị thế cố thủ là cớ sao?

Trước hết, Giang đông ngoài đường lối chính trị thu hẹp trong khu vực, không còn hiệu triệu chính trị đại thể. Khác với Thục, mỗi lần xuất sư phạt Ngụy đều dùng danh nghĩa “Hán tặc bất lưỡng lập, vương nghiệp bất thiên an”.

Một lần Tôn Sách tính chuyện xuất binh tăng trưởng thế lực quá giang lên miền Bắc, chẳng may việc chưa thu xếp xong Sách đã biết thành bộ hạ của Hứa Cống giết chết.

Lỡ thời cơ, từ đó về sau, chính trị Đông ngô rơi hẳn vào thế thủ. Thêm nữa thế thủ Đông Ngô phần lớn cũng tại người lãnh đạo, nó đã rõ ràng ngay lúc Tôn Sách phó thác quyền bính cho Tôn Quyền, Sách nói:

– “Vận dụng dân chúng Giang đông để quyết cơ chốn trận địa thì Quyền không bằng ta. Nhưng cử người hiền, dùng người tài khiến ai cũng tận tâm tận sức bảo vệ Giang đông thì ta không bằng Quyền”

Xét về nhà họ Tôn, riêng Tôn Sách rộng tầm mắt hơn hết. Tôn Quyền kém Tôn Sách rất xa, bản chất chính trị của con người Tôn Quyền là: “khuất thân nhẫn nhục, nhiệm tài đương kế”. Quyền chỉ biết thu vén tính toán hẹp hòi, không còn cái phóng dật thiên tài của Khổng Minh và cái say sưa tàn bạo già dặn của Tào Mạnh Đức.

Đối ngoại, Tôn Quyền biết khuất thân nhẫn nhục nhưng riêng với chính vì sự nội bộ, tâm tính Tôn Quyền lại khác hoàn toàn, nó chỉ mang khí chất một thanh niên con nhà nuông, với tác phong bồng bột, khinh thị, kiêu căng thừa tự của Tôn Kiên, Tôn Sách. Cho nên Tôn Quyền chỉ vì nóng nẩy hờn dỗi mà bốn phen lập tự, tạo thành những rối ren phiền nhiễu không đâu.

Nguyên nhân thứ ba hãm Đông Ngô vào thế thủ là: Đông Ngô luôn luôn phải đối phó với những dân tộc bản địa biên cảnh, trận chiến tranh thường xuyên với những dân tộc bản địa này đã làm trở ngại cho sức tăng trưởng của Đông Ngô ghê gớm vì biết bao nhiêu vật lực đã tiêu tốn đi. Chỉ một khu vực Đan Dương thôi, Đông Ngô từng chống chọi hàng mấy trăm lần với dân tộc bản địa Sơn Việt. Sử chép rằng: dân tộc bản địa Sơn Việt rất hay việc võ, thiện chiến, sùng thượng khí lực, ở vùng hiểm trở, họ đi trong rừng như cá dưới nước, lúc đánh họ đến đông như kiến, lúc rút thì trận địa vắng teo, thật khó lòng mà khắc chế”. Xem nhận xét của Ngô Sử đủ biết dân tộc bản địa Sơn Việt là mối đại họa cho Đông Ngô. Trong Lục Tốn truyện còn cho biết thêm thêm: “Dân tộc Sơn Việt mỗi lần gây can qua đều mang tác dụng chính trị do thủ đoạn của Tào Tháo”.

Muốn bảo vệ ta thì phải tiến công địch. Đó là một quy luật trận chiến tranh. Tôn Quyền giỏi thế thủ, nhưng không giỏi thế công, thường thường thế thủ tuyệt đối cũng là trở ngại vất vả tuyệt đối. Trận Xích Bích chứng tỏ sự trở ngại vất vả tuyệt đối đó.

Tào Tháo xâm nhập Kinh Châu, Lưu Tông sợ hãi đem thuyền bè, bộ binh dâng cho Tháo. Binh Tào thừa thế uy hiếp Giang Đông, quân số ước chừng hơn ba mươi vạn. Dưới áp lực đè nén to lớn ấy, Giang Đông chỉ có hai con phố phải chọn, “đánh hay hàng”. Hàng thời gian hiện nay không thể là hòa mà là tiêu diệt. Đánh thì sức lực Giang Đông so với Ngụy quân quá kém sút. Trong triều đình phái chủ hòa chiếm đại hầu hết. Thế thủ Tôn Quyền chủ trương bị rình rập đe dọa lung lay đến tận cội rễ.

Nhưng kết quả của trận chiến tranh Ngô Ngụy lại rất là đột ngột. Tào quân thua lớn. Tại sao? Tam quốc chí và Tam quốc chí diễn nghĩa nêu ra mấy nguyên cớ chính:

a- Ngô Thục link ngặt nghèo.

b- Tào Tháo thất bại trên mặt trận gián điệp (những việc Hoàng Cái chịu khổ nhục kế, Phượng Sồ, Tưởng Cán).

c- Binh sĩ Trung nguyên không giỏi thủy chiến.

d- Tào Tháo chưa khắc phục trọn vẹn tâm ý của mười vạn hàng quân của Lưu Biểu.

e- Tào Tháo còn bị hạn chế bởi lực lượng Hàn Toại, Mã Đằng phía Bắc.

Thua ở Xích Bích, nước Ngụy tìm ra một đại thắng về sau là: nhận được rõ tính cách lợi hại của link Ngô Thục. Tháo liền trở lại sửa sang xây dựng địa phận to lớn của tớ, đợi Ngô Thục xích míc sẽ ra tay.

Thắng ở Xích Bích, Tôn Ngô đi đến thất bại tương lai vì lòng tự tôn nóng nẩy của những người dân lãnh đạo say sưa với thắng lợi nhất thời. Tôn Ngô phạm vào lỗi lầm tai hại trên chính lược đúng như Tào Tháo Dự kiến là phá bỏ chủ trương liên minh Ngô Thục. Mặc dầu Lã Mông đã giết được Quan Vũ, chiếm cứ toàn cõi Giang Lăng, nhưng cũng thế nên vì thế mà Đông Ngô bị lôi cuốn vào một trong những cuộc trận chiến tranh tai hại. Mặc dầu Lục Tốn đập tan vỡ lực lượng Lưu Bị, nhưng Đông Ngô vẫn còn đấy bị hãm vào một trong những cuộc trận chiến tranh du kích tiêu tốn khiến Đông Ngô vướng vít. Trong khi đó, kẻ đại địch của Giang Đông là Tào Tháo thừa thế tăng trưởng.

Tôn Quyền bồn chồn vì thế lực Quan Vũ, uất ức vì vài lời khinh bạc và hấp tấp vội vàng với mấy mối lợi do Tào Tháo nhử; nhãn quan chính trị của Tôn Quyền quả thật là quá ngắn. Tôn Quyền chỉ đụng độ với Tào Tháo một lần tại Xích Bích, trận này Tôn Quyền đại thắng. Thế mà đời sau vẫn bảo Tôn không bằng Tào. Ấy là vì cái kĩ năng kế hoạch, kĩ năng nhìn thế lớn của Tôn không đáng học trò Tào vậy.

7.5. Mưu sĩ Tuân Úc

Nhân tài thời đại Tam quốc thật nhiều. Đem so sánh số nhân tài qui tụ tại ba nước Ngụy Ngô Thục thì số trí thức dưới trướng Tào Tháo cao nhất, thứ nhì Ngô, thứ ba Thục.

Trong đám mưu sĩ nước Ngụy, có Tuân Úc được Tào Tháo thưởng thức hơn hết.

Tào Tháo vốn đã là người túc trí, đa mưu, kẻ làm mưu sĩ cho Tào Tháo không phải thuận tiện và đơn thuần và giản dị gì.

Tuân Úc xuất thân từ mái ấm gia đình môn phiệt. Tổ phụ Tuân Úc là Tuân Châu nổi tiếng học rộng, thày dạy những danh sĩ Lý Ưng, Vương Xướng. Tuân Châu có tám người con được đời xưng tụng làm “tám con rồng nhà họ Tuân”. Chú của Úc là Tuân Sảng làm quan đến chức Tam Công. Tuân Úc ngay từ lúc còn trẻ đã nhận được thức những cái thối nát của bọn danh sĩ Thái học viên, tự mình từ bỏ con phố từ chương hoa mỹ để đi tìm thực học.

Tuân Úc có 5 sở trường:

– Thứ nhất: giàu mưu trí, kế hoạch của ông có một tính chất nhất là ẩn trọng tính xa. Lúc Đổng Trác nắm quyền, Tuân Úc đang làm một chức huyện quan, từ dịch trở về quê quán. Úc nhận thấy sắp loạn to đến nơi mới hội họp những bô lão trong làng nói rằng: “đất Dĩnh Xuyên toàn bộ chúng ta chẳng chóng thì chầy cũng thành chiến địa vì nó ở ở chính giữa chỗ binh xung, vậy phải tính chuyện rời đi không thể chậm trễ nữa. Các bô lão dùng dằng chưa quyết, Tuân Úc gặp dịp Hàn Phức mời ra giúp việc liền thu xếp cho gia tộc thân thích bỏ đất Dĩnh Xuyên ngay. Quả nhiên không bao lâu, quân Đổng Trác tới cướp bóc vùng Quang Đông, đất Dĩnh Xuyên bị tàn hại hơn hết.

– Tào Tháo khởi binh đánh Đào Khiêm, phó thác Tuân Úc quản trị và vận hành hậu phương, quân còn sót lại rất ít. Trương Mạo, Trần Cung, Lã Bố thừa cơ tiến công, tình thế mười phần nguy cấp. Tuân Úc cùng Hạ Hầu Đôn bình tĩnh ứng phó. Giữa lúc nguy nan này, có quan Thứ sử Dự châu là Quách Cống đem mấy vạn quân đến dưới thành đòi tiếp kiến Tuân Úc. Ai cũng nhận định rằng Quách Cống đồng mưu với Lã Bố nên muốn giữ không để Úc ra rỉ tai. Úc nghĩ, từ chối Cống tức là đẩy Cống hùa theo Lã Bố, bất nhược nếu không thu dụng được Cống thì tối thiểu cũng làm cho lực lượng Cống trung lập. Nghĩ vậy rồi Tuân Úc thản nhiên ra hội đàm với Quách Cống. Cống thấy Úc không hề có sắc mặt hoảng loạn lo âu nên bụng bảo dạ, chắc Úc đã sắp xếp chu đáo rồi nên kéo quân đi thẳng. Cái kế thành bỏ ngỏ chứng tỏ thủ đoạn quyền biến của Úc rất cao vậy.

Ở với Tào Tháo, Tuân Úc đã tương hỗ cho họ Tào những kế sách lớn như:

a- Khi Tháo đánh nhau với Viên Thiệu, quân Viên Thiệu cực thịnh, quân Tào Tháo thì ít, lương lại thiếu. Hai bên cầm cự dằng dai, Tháo muốn rút quân bèn biên thư hỏi ý kiến Úc, Úc vấn đáp:

– Hiện tại lương tuy thiếu, nhưng kẻ thoái trước tất là gẫy nát hết, xưa kia Lưu Bang cầm cự Hạng Võ ở Hàm Dương, cả hai bên đều nhất quyết không chịu thoái quân trước. Bây giờ ta chống giữ Viên Thiệu, chẹn họng Thiệu tính ra đã quá nửa năm, tình hình sắp chín sắp biến, đó đó là lúc ta nên dùng kỳ binh đó.

b- Tào Tháo muốn chiếm Từ Châu của Đào Khiêm trước, trừ Lã Bố sau, Tuân Úc chủ trương ngược lại, Úc nói: “lấy lớn đổi nhỏ, lấy an đổi nguy, chỉ biết cái kế nhất thời mà quên rằng vị trí căn cứ mình còn chưa vững là không phải”. Tháo chịu.

Tào Tháo chiếm Nghiệp thành, lĩnh chức Ký Châu Mục, nhiều người khuyên nên trở lại chính chế cũ, phân định cửu châu. Tháo bằng lòng, đem ý kiến ấy hỏi Tuân Úc, Tuân Úc bàn rằng:

– “Ký Châu đất rộng người đông, ta mới chiếm đoạt, hết thẩy đều lo sợ, nếu dân chúng sinh biến mà ta chống giữ tất yếu phải đàn áp. Đàn áp là ta mất chính nghĩa. Đã mất chính nghĩa rồi thì sẽ càng khó giữ. Chẳng bằng ngài hãy đem binh đánh dấn lên Hà Bắc, tiến xuống Kinh Châu để làm sáng tỏ chủ trương to tát quang minh của ta cho thiên hạ rõ đại thể, mà biết tự an, đấy mới là kế lâu dài vậy”.

Tào Tháo tỉnh ngộ bãi bỏ việc tái lập cựu chế tại Ký Châu. Việc Tô Châu, Duyện Châu, Tuân Úc chủ trương củng cố trước, tăng trưởng sau. Việc Ký Châu Tuân Úc lại chủ trương tăng trưởng trước, củng cố sau. Trông hình thức bề ngoài thì trước và sau có vẻ như phân cách riêng không liên quan gì đến nhau, thực sự Tuân Úc chỉ là: trong tăng trưởng đi tìm cái củng cố, trong củng cố mở đường tái tăng trưởng. Chỗ khó là yếu tố thích đáng “sự thích thời giả kỳ công đại!” (thao tác đúng thời mới nên đúng). Đáng tiếc Tam Quốc chí diễn nghĩa không cho những người dân đời sau đủ tư liệu thiết yếu để phân tích, chứng tỏ rõ ràng khúc triết hai tuyến phố kế sách của mưu sĩ họ Tuân.

Thứ hai: Tuân Úc sáng suốt và rộng lượng đề cử người tài giỏi. Thông thường những mưu thần sách sĩ vẫn vẫn đang còn lối trông người thiên hạ bằng nửa con mắt. Tuân Úc trái lại, lúc nào ông cũng tha thiết quý trọng nhân tài, tìm cách tiến cử. Tuân Du, Vương Lãng, Quách Gia, Tư Mã Ý, Hoa Hâm, Trần Quân (Quần?) hết thảy đều do một tay Tuân Úc đề bạt.

Thứ ba: Nhân phẩm thuần hậu, thao tác thẳng thắn. Sách “Điển lược” nói Tuân Úc là người khiêm nhượng, không đài những, không khiến cho tư dục loạn tâm ý. Úc có một tên tùy tùng tận tụy hầu hạ. Lúc ông nắm quyền lớn, có người nói: “giờ đây ông ở ngôi cao, tại sao không nhân tiện xin phong chức cho hắn? Tuân Úc cười nói: Quan chức dùng để tỏ tài hành sự của người ta, hắn tuy tận tụy với tôi nhưng không phải vì thế mà tôi dùng bậy”.

Sau khi vị thế Tào Tháo củng cố, những bạn của Tuân Úc sốt sắng, nhất là Đổng Chiêu đều chạy đua vận động tước vị. Chiêu đem ý kiến bàn với Tuân Úc. Họ Tuân vấn đáp: Thái Tổ vì đại nghĩa hưng binh để lập kỷ cương triều đình, ổn định nhà nước, riêng tôi, tôi muốn giữ lòng thành thực trung trinh mà yêu mến Người qua đức độ, chẳng ham như vậy”.

Thứ bốn: Mỹ đức giản dị tiết kiệm chi phí. Thường thường Tuân Úc vẫn đem bổng lộc của tớ phân phát cấp đỡ cho tôn tộc, họ hàng, bạn bè thân thiện cũ, cho nên vì thế nhà không còn của thừa. Tào Tháo đem con gái mình gả cho (con?) Tuân Úc và cấp ruộng nương tiền bạc vô kể, nhưng cha con Tuân Úc đều khiêm nhượng từ chối.

Thứ năm: dáng dấp đường bệ, dung mạo chín chắn, Tuân Úc có một nghi biểu ít thấy. Chẳng thế mà khi Nễ Hành chửi Úc cũng phải công nhận rằng: “Tuân Văn Nhược chỉ đáng đi viếng đám tang”. (Tuân Văn Nhược khả tá diện điếu tang).

7.6. Về cái chết của Tuân Văn Nhược

Tuân Úc thọ đúng 50 tuổi. Cái chết của ông, dư luận phân thành hai thuyết. Tam Quốc chí viết: “Tuân Úc không tán thành việc Tào Tháo tấn phong Quốc công, Tào Tháo ngần ngại để bụng, Tuân Úc buồn phiền lâm bệnh nặng”. Sách Ngụy thị Xuân thu viết: “Tào Tháo sai người biếu Tuân Úc một mâm gỏi, Úc mở ra, ở trong không còn gì, biết Tào Tháo muốn mình tự xử bèn uống thuốc độc chết”. Tâm sự người xưa ra sao? Thuyết nào thì cũng đúng, ngày này ta chẳng có tài năng liệu xác thực nào để mà chứng tỏ cả.

7.7. Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung

Phần tử trí thức dân dã thời đại Xuân Thu đặt chủ trương cho mọi hoạt động và sinh hoạt giải trí chính trị phải:

– Lấy Trung, Thứ làm lập trường.

– Lấy Nhân, Nghĩa làm nguyên tắc.

Cả ba Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung đều chịu ràng buộc tư tưởng mà thành phần trí thức Xuân Thu đã nêu lên.

Khi thể hiện trên hành vi, ba người lại khác hoàn toàn nhau. Tuy vậy kết quả cùng quy vào một trong những tiềm năng là tôn vinh Trung Thứ Nhân Nghĩa.

Mặc dầu cả ba cùng góp sức cho tiềm năng giống nhau, nhưng nếu đem so sánh, phán đoán thì việc làm và thái độ Tuân Úc tỏ ra đáng kính trọng, đáng nể hơn hết, cho nên vì thế công lao góp sức của Tuân Úc cho thời đại cũng lớn số 1. Vì Tuân Văn Nhược là người sáng suốt, biết thỏa hiệp lý tưởng chính trị với hiện thực, tuy phải ứng phó với hiện thực mà vẫn không hề quên công tác thao tác chỉnh đốn thể hệ nhân văn.

Trần Cung thì ý thức đấu tranh quá ngắn hơi. Còn Nễ Hành chỉ là một loại trí thức ngoạn mục, điên cuồng. Một tâm trạng yếu ớt và nông nổi. Tâm trạng nổi loạn bằng những cơn giận cơn điên, nhắm mắt lao nguồn vào chướng ngại để hòng phá nó. Tâm trạng chống đối vô ích, chỉ bàn chỉ nói, chỉ chửi mà không làm gì cho đúng mức cả.

Page 12

(Trận Quan Độ)

Sách Tam Quốc Chí Ngụy Vũ Đế bản ký chép:

Đời vua Hoàn Đế, sao Hoàng tinh mọc sáng giữa ranh giới hai nước Tống, Sở. Ân Quỳ, một nhà thiên văn ở đất Liêu Đông đoán rằng: năm mươi năm về sau tất sẽ có được chân nhân khởi nghiệp tại vùng Lương Bái, sức mạnh như sấm sét. Quả nhiên đúng 50 năm, thì Tào phá Viên Thiệu, thế lớn chẳng ai bằng.

Những lời ghi chép trên đây chứng tỏ đương thời rất coi trọng cuộc trận chiến tranh Viên Thiệu-Tào Tháo, dân đoán đó là một trận đánh quyết định hành động cục diện chính trị lúc bấy giờ.

Tháo cướp đoạt cơ quan ban ngành thường trực Trung Ương, chiếm lãnh toàn bộ khu vực Trung nguyên, những lực lượng trái chiều đều bị tiêu diệt chỉ duy Viên Thiệu là người địch lớn của Tháo mà thôi. Viên Thiệu chẳng những đất rộng binh cường, danh vọng trong xã hội lại rất cao nữa.

Có thể nói, trước trận Quan Độ, thiên hạ còn trong tay Viên Thiệu. Nhưng sau trận Quan Độ, thiên hạ chuyển về tay Tào Tháo.

Sự thất bại của Viên Thiệu được hậu thế nhìn nhận ra làm sao? Trước đó người ta thấy nhiều luồng dư luận rất khác nhau, hết thẩy đều chê Thiệu, hoặc nhẹ hơn thì ngậm ngùi đổ thừa cho số phận. Đặc biệt Tam Quốc Chí diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung cũng muốn tạo tính điển hình cho một nhân vật tiểu thuyết nên Viên Thiệu đã phải chịu những phê phán cực nghiêm khắc. Qua ngọn bút La Quán Trung, Viên Thiệu không khác gì một con khỉ, càng trèo cao càng làm cho những người dân ta trông thấy cái đít đỏ của nó.

6.1. Viên Thiệu dưới mắt La Quán Trung

Viên Thiệu là một nhà chính trị bất tài, múa rối và ngu xuẩn. Viên Thiệu không còn lấy một đức tính nào tốt thiết yếu cho vị thế lãnh đạo đoạt Ký Châu, Thiệu chỉ nhằm mục đích vơ vét của cải mà không biết thu dụng những tài năng. Tuân Úc, người mưu sĩ lỗi lạc của Tào Tháo, đã từng ở cạnh bên Thiệu. Vì trông rõ tác phong thấp hèn của Thiệu nên sớm bỏ sang bên Tào Tháo. Trong một cuộc đàm thoại với Tào Tháo, Úc nhận thấy Thiệu như sau:

a) Ngoài mặt thì bao dung nhưng lòng lại đố kỵ.

b) Do dự không quyết đoán để hỏng việc về sau.

c) Trị quân lỏng lẻo, chấp lệnh không nghiêm, quân nhiều mà vô dụng.

d) Cậy là người quyền uy, chuộng hư danh nên chỉ có thể có những kẻ hẹp hòi, thấy lợi thì giúp phụng.

Đại kế chính trị của Viên Thiệu lẽ ra là phải nghênh giá Hiến Đế tại Nghiệp quận. Bằng vị trí căn cứ to lớn, quân số trăm vạn, nếu Thiệu biết nghe lời Thư Thụ, sớm mượn ngay danh nghĩa Thiên Tử sai khiến khắp chư hầu thì đâu đến nỗi gia phá mạng vong. Thư Thụ khuyên Thiệu: “Ví như không biết tính sớm, tất có kẻ làm trước ta, quyền chỉ đến từng thời cơ. Tướng Công nên phải làm tấn tốc”. Nhưng Thiệu cứ dùng dằng, đến lúc Tào Tháo nhanh chân Thiệu mới quyết định hành động thì đã muộn.

Về quân sự chiến lược, Viên Thiệu hoàn toàn dốt nát. Chiến dịch Quan Độ, trên tương quan lực lượng, binh Thiệu ở ưu thế tuyệt đối, quân số gấp mười binh Tào, lương thảo khá đầy đủ hơn Tháo bội phần. Thế mà chỉ vì 5,000 kỳ binh của Tào Tháo, khiến toàn bộ lực lượng Thiệu tan tác như hoa rơi, bình vỡ. Trước hết Tào Tháo xử lý và xử lý hai võ tướng ưu tú của Thiệu là Nhan Lương, Văn Xú sau rồi mới dẫn binh tới Quan Độ. Ở Quan Độ, Tháo phân hóa hàng ngũ Thiệu, phân thế lực Thiệu rồi đánh tấp vào chỗ yếu nhất là kho lương Ô Sào. Thiệu thua trận là tại Thiệu không biết nghe lời Điền Phong chủ trương trận chiến tranh lâu dài với Tháo.

Nhưng cái nguyên nhân to tát nhất tạo ra thất bại ê chề của Thiệu dưới mắt tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa là:

Thiệu không còn tư cách lãnh tụ để sử dụng nhân tài và ứng phó biến chuyển.

Mưu sĩ Điền Phong ở Quan Độ nói với Thiệu rằng: “Tào Tháo tài dùng binh, quân lực Tào tuy ít ta không nên khinh địch, chẳng bằng hãy giữ thế lâu dài. Tướng quân hiện có bờ cõi chắc như đinh, dân chúng bốn châu đông đúc, bên phía ngoài nên kết nạp anh hùng, bên trong nên phát động nông chiến. Kéo dài trận chiến tranh để làm giảm nhuệ khí quân Tào rồi ta phân kỳ binh, tìm chỗ yếu mà đánh. Tào mà cứu bên tả thì ta đánh riết bên hữu, Tào cứu phía hữu thì ta đánh riết phía tả, khiến địch quân vất vả khó nhọc. Chắc trong vòng hai năm phần thắng phải về tay ta.

Ngoài ra Viên Thiệu thêm tật kiêu. Trước thời cục nguy ngập, bao giờ Thiệu cũng cho chỉ có mình cứu nổi tình thế. Tự kiêu, tự đại, tự mãn. Thiệu trở thành con người không thèm nghĩ điều hay lẽ phải. Mỗi ngày mỗi ngu tối, Thiệu như người sa chân xuống vũng lầy.

6.2. Lật lại chiến dịch Quan Độ – Xét lại trường hợp Viên Thiệu

Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa mọi người thường nghĩ giống nhau trên một điểm: “Chê trách Viên Thiệu đất lớn, binh mạnh mà không sớm biết giành thiên hạ, ngay lúc Tào Tháo còn chưa bình định xong Hà Nam, lại ngồi nhìn Tào Tháo phá Đào Khiêm, hạ Lã Bố, tóm gọn Lưu Bị, đánh đuổi Viên Thuật, chiếm quyền Lạc Dương rồi mới phát động trận chiến tranh với Tháo là một đường lối chính trị “trông đợi” đại bại.

Ông Mao tôn Cương phản hồi trận chiến tranh Viên, Tào viết:

– Lúc Tháo đang đánh Lã Bố, Thiệu hoàn toàn có thể đánh úp Hứa Đô mà không đánh là một điều lầm lỡ. Lúc Tháo đang đánh Lưu Bị, Thiệu cũng hoàn toàn có thể giốc lực đánh úp Hứa Đô mà Thiệu cũng không làm là hai điều lỡ. Lã Bố thua rồi, Lưu Bị chạy rồi Thiệu mới đánh Tào thì đã muộn quá lắm. Quân đội ở Quan Độ lẽ ra Thiệu phải chia hai mặt, một chống ở tiền tuyến, một đánh thẳng vào hậu phương của Tào Tháo mà Thiệu không làm là ba điều lỡ.

Sự thực, biến cố chính trị không còn tính cách một chiều như những lời phê phán kể trên.

Nói đến trận chiến tranh thì trước hết phải ổn định được nội bộ, phải có một phương bảo vệ an toàn và uy tín, giàu mạnh đã. Phê phán trận chiến tranh Viên, Tào ta không nên quên những mối lo nội bộ của mỗi bên. Chiếu theo niên lịch nhà Hán thì Viên Thiệu mãi tới năm Kiến An thứ 4 tháng 3 mới xử lý và xử lý xong Công tôn Toản, trong lúc Tào Tháo vượt mặt Lã Bố từ thời điểm ngày đông năm Kiến An thứ 3. Đến ngày xuân năm Kiến An thứ 4 quan Thái Thú đất Tp Hà Nội Thủ Đô là Trương Dương bị bộ hạ là Trương Xú giết chết.

Trương Xú lại bị Khuê Cố hại, Cố quy thuận Viên Thiệu. Tào Tháo liền khởi binh đánh Khuê Cố, tháng tám năm ấy Tào Tháo tiến binh đến Lê Dương đồng thời chia quân phòng thủ Quan Độ, thế lực phủ rộng rộng tự do ra đến Hà Bắc.

Bên Viên Thiệu, sau khi diệt Công tôn Toản, Thiệu bèn phái con trưởng là Viên Đàm giữ Thanh Châu, con thứ là Viên Hy giữ U Châu, và cháu ngoại là Cao Cán giữ Tinh Châu. Bố trí như vậy không đến nỗi chậm.

– Còn bảo Viên Thiệu ngồi chờ Tào Tháo vào Trung Ương dùng Thiên Tử sai chư hầu thì không đúng. Bởi vì, ngay lúc Tào Tháo thiên Hiến Đế về Hứa Đô, Thiệu đã từng đem quân lực uy hiếp Tháo buộc phải đưa vua tới Yên Thành, thành này thuộc phạm vi thế lực Thiệu. Thiệu vốn vẫn chủ trương không sở hữu và nhận Hiến Đế. Hành động này chứng tỏ Thiệu không phải là con người chậm rãi xoay chuyển lập trường để ứng phó với tình hình thực tiễn. Tháo dĩ nhiên không nghe, lẽ ra trận chiến tranh Viên Thiệu bùng nổ ngay từ lúc ấy, nhưng nội bộ Thiệu lủng củng ở vùng Hà Bắc nên Thiệu đành bỏ qua khiến cho Tào Tháo thắng mình một bước. Hơn nữa nghênh giá hay là không nghênh giá chẳng có liên quan chi đến việc thất bại của Viên Thiệu là mấy. Vậy không thể trách Thiệu là thất sách trên yếu tố tranh thủ “oai vua” được.

Bên Tào Tháo, thời hạn đó không phải đã hoàn toàn rảnh tay, mối lo của Tào Tháo là bọn Trương Tú ở Nhương huyện. Địa thế Trương Tú mặc dầu phía Nam hoàn toàn có thể link với Lưu Biểu nhờ tiếp tế, nhưng Trương Tú nghe lời Giả Hủ đầu hàng Tào Tháo. Sở dĩ Giả Hủ khuyên Tú theo Tào vì hai lẽ:

1) Thế của Tú khó thắng nổi Tào, Viên Thiệu thì ở xa, Lưu Biểu thì chỉ muốn nhàn không thích động.

2) Hủ cũng như những thành phần trí thức tiến bộ khác, bênh vực sự bảo vệ an toàn và uy tín của đại cục, đấu tranh cho khuynh hướng thống nhất.

Trương Tú về với Tào Tháo tháng mưới một năm Kiến An thứ 4 thì tháng 12 Tào Tháo tiến binh tới Quan Độ. Nhưng vì Trương Tú lại nổi dậy, thành thử việc trận chiến tranh với Viên Thiệu đành phải dời sang một ngày khác. Giữa lúc Thiệu Tháo khởi đầu gay go, Trương Tú dấy binh, Tào Tháo tiến công Tú thì Viên Thiệu cũng ngọ nguậy. Lưu Bị nhanh chân xin Tháo cho đi đánh Viên Thuật, chẹn không cho Thuật liên minh với Thiệu.

Viên Thuật bấy giờ ở Hoài Nam, vì hoang dâm vô độ, làm cho dân cùng tài tận, tự biết khó lòng tại vị nên có ý đầu hàng Viên Thiệu. Tháo được tin liền phái Lưu Bị đem binh đi phá cuộc liên minh này. Lưu Bị thi hành xong sứ mạng, hiểu rằng không thể trở lại với Tháo, liền đấy thủ đoạn chiếu chỉ bị lộ. Lưu Bị liền giết quan Thái thú Từ Châu là Xa Trụ rồi dồn quân đến Tiểu Bái, ra mặt chống Tào Tháo. Tháo sai Lưu Đại và Vương Trung đánh Bị đều bị Huyền Đức vượt mặt.

Tháo sợ Lưu Huyền Đức mọc vây mọc cánh bèn quyết định hành động động chinh diệt Lưu Bị. Việc này sách Tam Quốc Chí Ngụy Vũ Đế bản ký chép như sau:

Các Tướng nói: Người tranh thiên hạ với Ngài (chỉ Tào Tháo) là Viên Thiệu, nay Thiệu mới đến mà bỏ sang Đông, nhỡ Thiệu đánh vào phía sau thì làm thế nào? Tháo nói: Lưu Bị là nhân kiệt, Viên Thiệu tuy có đại chí nhưng xét việc chậm chắc không động ngay đâu.

Thiên Viên Thiệu truyện kể: “khi Tào Tháo đánh Lưu Bị, Điền Phong khuyên Viên Thiệu đánh úp phía sau Tháo. Thiệu nói: “Con ta mắc bệnh không lòng nào tính việc can qua”. Điền Phong ra ngoài lấy gậy đập xuống đất than rằng: “Chỉ vì đứa trẻ mà lỡ việc lớn”.

Những ghi chép trên đây chẳng qua chỉ là những lời phụ hội. Tháo giỏi dùng binh, hậu phương quyết nhiên không bỏ ngỏ, hơn thế nữa binh sĩ dồi dào, Tháo chắc đã giữ thận trọng. Thêm nữa, vị trí căn cứ của Thiệu ở mãi tận Hà Bắc, muốn đánh úp Hứa Xương, trước phải vượt qua sông Hoàng Hà, khỏi Hoàng Hà còn phải đi hàng mấy trăm dặm nữa. Không thể chỉ trong vòng mười ngày mà hoàn toàn có thể khắc phục nổi khoảng chừng hành quân dài như vậy. Bảo đem khinh binh mà đánh ư? Chống sao lại với lực lượng phòng thủ của Tào ở Hứa Đô. Còn lực lượng Lưu Bị thì rất hạn chế, không đủ kĩ năng khiến chế quân Tào lâu được. Cho nên sự mong mỏi chính của Lưu Bị chỉ là chờ cho Viên Tào đánh nhau, rồi đứng đằng sau quấy rối mà thủ lợi. Cả Thiệu lẫn Tháo đều rõ điều này. Tháo sở dĩ tiến công Lưu Bị cũng là tại đã biết tinh tướng Lưu Bị. Tào Tháo không sợ chạm trán riêng với Lưu Bị, nhưng Tháo sợ Lưu Bị sẽ phá rối hậu phương giữa lúc trận chiến tranh với Thiệu bùng nổ.

Đụng độ, tự nhiên người thua là Lưu Bị, Lưu Bị chạy sang nương nhờ Viên Thiệu.

Ngoài ra có một yếu tố khác, nhiều người đọc Tam Quốc không lưu ý là: Tập đoàn vũ trang ở vùng núi Thái Sơn do Tang Bá đứng đầu. Bá trước kia phục tùng Lã Bố. Tháo vượt mặt Lã Bố, chiêu hàng Tang Bá, rồi giao cho Tang Bá quản trị và vận hành hai châu Thanh, Từ. Ở đây, Tang Bá có đủ lực để khiến chế Viên Thiệu cho nên vì thế Tào Tháo không sợ Thiệu tiến công mình từ mặt Bắc Sơn Đông, Tang Bá cũng hoàn toàn có thể làm mưa làm gió ngay trong đất Hà Bắc của Thiệu.

Đến lúc yếu tố bình định nội bộ đã tạm xong. Thế là đã tới giờ phút tử trận giữa Thiệu và Tào Tháo, vì tình trạng dằng co không cho kéo dãn hơn thế nữa được nữa, trận chiến tranh Viên Tào bùng nổ thực sự. Mở đầu là:

Tháng hai năm Kiến An thứ 5, Viên Thiệu phái Nhan Lương tiến công Bạch Hà thành thuộc Đông Quận của quan Thái Thú Lưu Diện còn Thiệu tự mình mang đại binh tới Lạc Dương. Tháng 4, Tào Tháo thống lĩnh binh đội đi cứu Lưu Diện, Tuân Du thấy Thiệu quân nhiều nên khuyên Tháo chuyển quân về phía Tây thẳng đường Diên Tân vờ vịt úp hậu phương của Thiệu. Quả nhiên Thiệu chia quân chống giữ mặt Tây. Tháo rút binh thật mau. Mặt khác lại sai Trương Liêu cùng Quan Công chặn đánh chém chết Nhan Lương. Tiếp luôn việc Thiệu qua sông. Lưu Bị cùng Văn Xú sang trước, Xú cũng trở nên Quan Công chém chết. Nhan Lương, Văn Xú hai danh tướng của Thiệu thất trận, làm cho thanh thế quân Tào vượt hẳn quân Thiệu. Tuy nhiên quân nòng cốt của Viên Thiệu vẫn chưa hề hấn gì, cho nên vì thế thắng phụ còn phải đợi cuộc quyết chiến.

Tào Tháo thắng Nhan Lương, Văn Xú rồi, hồi binh về Quan Độ. Viên Thiệu tiến quân vào Dương Vũ, hai bên cầm cự nhau chẵn hai mươi tháng. Sau Viên Thiệu mới từ từ tiến binh, tựa vào những cồn cát mà đóng trại, suốt dọc từ Đông sang Tây trùng điệp ước mười mấy dặm. Tào Tháo chia quân chống giữ. Xuất binh quyết chiến thì thế của Tào Tháo hoàn toàn bất lợi. Viên Thiệu ồ ạt tiến công Quan Độ, trên đất đắp lũy, dưới sâu đào hầm. Thế trận Tào mười phần nguy cấp. Phòng thủ mặc dầu quân Tào Tháo còn đủ sức, nhưng lương thực đã cạn khó lòng giữ lâu đươc. Tào Tháo tính cách thoái về Hứa Đô, viết thư cho Tuân Úc thương nghị. Vấn đề thoái rút giờ đây thật trăm khó ngàn khó, chỉ hơi động bước là quân tình nao núng ngay và Thiệu sẽ đổ ra truy kích. Tuân Úc mới phúc đáp: “Ngài đem thế rất yếu đương đầu với thế rất mạnh, nếu không khắc chế nổi địch thì địch sẽ trùm lớp ta. Bây giờ đó đó là giờ phút phải dùng kỳ binh, xin đừng chậm trễ”.

Ý Tuân Úc là phải quyết chiến. Tình hình đã chống lại bất kể một sự thoái rút nào. Không thoái rút được thì phải mạo hiểm. Mạo hiểm không nghĩa là liều lĩnh, phiêu lưu, lao nguồn vào chỗ chết mà phải tìm nhược điểm của địch mà đánh. Nhược điểm đó là yếu tố vận tải lối đi bộ binh lương. Viên Thiệu có ước chừng hơn ngàn cỗ xe phụ trách việc này. Tào Tháo cho quân gắng sức đánh phá. Mặc dầu đốt quá nhiều, nhưng cũng không làm nổi quân Thiệu nao núng. Về sau mỗi lần đi tải lương, Thiệu đều phải có sai Thuần vu Quỳnh đi hộ tống, làm cho kế hoạch đốt xe lương không thực thi hiệu suất cao như trước. Tháo rất lo thì may thay:

Căn cứ sách Tam Quốc Chí thì Viên Thiệu có một mưu sĩ tên là Hứa Du, tính nết cực tham tiền, Thiệu không thỏa mãn nhu cầu được Du, Du chạy sang bên Tào, mang tin tức và bày mưu cho Tháo đánh Thuần vu Quỳnh ở chính kho chứa lương của quân Thiệu là Ô Sào.

Tháo, Tuấn Du, Giả Hủ tin theo chính bới không hề đường nào khác hơn là nghe kế Hứa Du. Tháo liền tự mình dẫn năm ngàn bộ binh, người ngựa ngậm tăm đi đường tắt mà đến chỗ Thuần vu Quỳnh, Quỳnh thấy ít quân bèn xông ra bày thành trận thế tác chiến. Tháo hạ lệnh đánh gấp, giết chết Thuần vu Quỳnh. Ván bài Ô Sào đúng là ván bài cạn láng trong đời chính trị của Tào Tháo vậy.

Sách Tam Quốc Chí Ngụy Vũ Đế bản ký viết:

Trương Cáp nghe tin Tào Tháo công hãm Thuần vu Quỳnh nên chạy vào khuyên Thiệu nên đem ngay đại binh cứu Quỳnh. Nhưng mưu sĩ Quách Đồ gạt đi nói: “Cứu Quỳnh không bằng đánh thẳng vào chính doanh Tào Tháo”. Trương Cáp cãi nói: “Doanh trại Tào Tháo kiên cố, đánh chắc không xong”.

Viên Thiệu nghe lời Quách Đồ, không nghe Trương Cáp nên chỉ có thể sai ít kỵ binh đến cứu Thuần vu Quỳnh và sai Trương Cáp, Cao Lãm lãnh đại binh tiến công doanh trại Tào Tháo. Quả nhiên doanh Tào không phá nổi, mà Thuần vu Quỳnh thì bị giết chết.

Quách Đồ thấy kế mình hỏng, xấu hổ nói với Thiệu rằng: “Trương Cáp nghe tin thất trận mừng lắm”. Cáp biết Đồ dèm mình cốt để che lỗi, lo sợ Thiệu sẽ vì lời Quách Đồ mà giết hại mình nên đem quân bản bộ tìm Tào Tháo đầu hàng.

Cũng ở trong một cuốn sách, mà chép chuyện trái ngược hẳn nhau, vậy thì những chuyện kể về Trương Cáp hàng Tháo cũng như về vụ cướp phá kho binh lương Ô Sào không còn gì xác nhận là đúng cả.

Lấy lý luận mà suy, ta thấy rằng:

Nơi Thuần vu Quỳnh đóng trại, tức Ô Sào, chỉ cách xa đại doanh Viên Thiệu chừng 40 dặm. Nếu cứu mà kịp thì Viên Thiệu đâu đến nỗi quá ngu ngốc lại không cứu? Vả lại lực lượng Tào Tháo chỉ có 5.000 người, trong lúc đó Thuần vu Quỳnh đã có 10.000. Lại thêm 5.000 kỵ binh mà Thiệu cho tiếp viện về sau, cộng toàn bộ là 15.000 người, so sánh gấp ba quân Tào. Còn một điều khác nữa là, quân Thiệu đâu phải ít, Thiệu có thừa kĩ năng vừa đánh doanh trại Tào, vừa cứu viện Ô Sào. Những sử liệu về trận Ô Sào rất lơ mơ nên sau này người ta không rõ thực sự Ô Sào thất thủ ra sao. Tuy nhiên, theo suy luận ta hoàn toàn có thể quyết đoán rằng: “Ô Sào đã thua rất nhanh, nhanh hơn hết thời hạn quân Thiệu vượt 40 dặm đến cứu viện. Lý do nào cho Tháo mức nhanh đó không rõ, kế Hứa Du hay một lối hành quân chớp nhoáng của Tháo? Sở dĩ Tháo chỉ dùng 5.000 quân vì dùng nhiều để (dễ?) lộ, lúc tin tức đến với Thiệu thì Ô Sào đã xử lý và xử lý xong. Việc sai Cao Lãm, Trương Cáp nhằm mục đích thẳng ngay trại Tào tiến công bất quá chỉ là đòn gỡ gượng ép mà thôi.

6.3. Lực lượng Viên Thiệu bị tiêu diệt ra sao?

Thuần vu Quỳnh bị giết rồi, Trương Cáp đầu hàng rồi. Căn cứ theo Tam Quốc Chí thì: Quân Viên Thiệu vì thế mà vỡ. Viên Thiệu và Viên Đàm bỏ quân mà chạy, Tào Tháo toàn thắng. Lý lẽ của yếu tố bại đó đại khái là: Quân Viên Thiệu đồn trú lâu ngày nên nhuệ khí tiêu tán, lòng quân xấp xỉ nên đến nỗi chỉ vài trận nhỏ đã làm cho Thiệu không gượng dậy nổi nữa.

Tào Tháo dùng kỳ binh đánh Thuần vu Quỳnh thật là cuộc hành quân vô cùng táo bạo. Tuy nhiên, dù sao trận Ô Sào cũng không chứng tỏ tài ba kế hoạch của Tào Tháo được. Tài ba ấy chỉ nổi trội lên ở đoạn Tào Tháo dám đương đầu lâu dài với Viên Thiệu, để chờ nhuệ khí bên Thiệu nhụt đi. Tháo quả nghe biết ruột gan Thiệu. Thắng bại trong trận chiến tranh tùy thuộc phía nào tại vị lâu nhất.

Sách Tam Quốc Chí, chương Viên Thiệu truyện viết:

– “Viên Thiệu khi chưa xuất binh, Điền Phong đã khuyên rằng: chia binh làm nhiều cánh, thừa chỗ yếu, chỗ trống, đánh tả, đánh hữu, sẽ làm cho quân đội mệt nhọc mà dân chúng chẳng định cư. Chi bằng buộc Tào Tháo phải quyết phân thắng phụ trong một trận lớn”.

Viên Thiệu không nghe. Đến khi Nhan Lương, Văn Xú bị giết, Thư Thụ lại tâu với Thiệu: “Quân Bắc nhiều nhưng không giỏi bằng quân Nam. Quân Nam thiếu lương, tài lực không sung túc bằng quân Bắc. Thế tất quân Nam có nhu yếu tốc chiến, tốc quyết, ta sẽ không còn cho địch thỏa mãn nhu cầu nhu yếu ấy bằng phương pháp vận dụng kế hoạch trận chiến tranh lâu dài”.

Viên Thiệu cũng không nghe.

Đọc đoạn trên Viên Thiệu rõ ràng là một anh chẳng biết thưởng thức kế sách quân cơ bao giờ. Đáng đánh mau, không đánh. Đáng đánh lâu dài lại không lâu dài.

Điểm này thật oan cho Thiệu, vì sách đã xuyên tạc. Đành rằng kế Điền Phong, Thiệu không dùng. Nhưng còn kế Thư Thụ thì Thiệu đâu có bỏ. Bằng cớ là: Thiệu với Tháo dàn quân từ thời điểm tháng tư mà mãi đến tháng tám mới thực sự đánh nhau. Có lần Tào Tháo đã muốn rút quân vì hết lương ăn, cái thư Tháo viết cho Úc đó đó là kết quả của kế hoạch lâu dài Thiệu đã vận dụng.

Thiệu thua bởi tại Tháo kiên cố quá. Khả năng kiên cố của Tháo, Thiệu lại không biết dốc toàn lực đánh quyết liệt mà chỉ đánh “rỉa” nên thua vậy.

Viên Thiệu thua, tình thế xoay chuyển hẳn. Trước đây Bắc khỏe Nam yếu, giờ đây Bắc yếu Nam khỏe.

Nhưng Thiệu cũng chưa tới nỗi yếu đến mức để Tháo hoàn toàn có thể quét sạch một cách thuận tiện và đơn thuần và giản dị. Bởi vì sau khi thoát khỏi Quan Độ, mặc dầu bị Tào Tháo truy đuổi ráo riết, nhiều Quận Huyện tại vùng Ký Châu hàng Tào, nhưng Thiệu chỉ không bao lâu sau đã trấn áp và chấn chỉnh đội ngũ để giành những Châu Quận bị chiếm, khiến Tào Tháo phải chùn không đủ can đảm tiến vào sâu nữa.

Tháo vốn vẫn tinh lắm về yếu tố thôn tính, nay phải chùn, đủ rõ quân Thiệu còn khỏe lắm.

Nhưng tại sao lực lượng Thiệu về sau bị hoàn toàn tiêu diệt?

Lực lượng Thiệu bị tiêu diệt không vì thất bại quân sự chiến lược mà hoàn toàn do tranh chấp chính trị nội bộ gây ra.

Sự tình như kể sau này:

“Tào Tháo không tiến sâu lên Hà Bắc nữa, bèn hồi binh về Hứa Đô. Trên đường về vòng đánh xuống để xử lý và xử lý ung nhọt Lưu Bị. Bị phải chạy nương nhờ Lưu Biểu.

Mùa xuân năm Kiến An thứ 7, Tào Tháo lại xuất binh đến Quan Độ, đến tháng 5 thì Viên Thiệu bị bạo bệnh chết. Các thủ hạ của Thiệu phân thành hai phe. Phe ủng hộ Viên Thượng, phe ủng hộ Viên Đàm. Anh em họ Viên liên tục tương tranh. Tào Tháo định tận dụng tiến công, nhưng lần này cũng uổng công vì anh em họ Viên lại đoàn kết. Năm Kiến An thứ 8, Tào Tháo tạm gác việc đánh Hà Bắc, trở về Hứa Đô và thu xếp chinh Nam phen nữa, đánh thẳng vào vị trí căn cứ của Lưu Biểu.

Viên Đàm, Viên Thượng thấy Tháo rút rồi lại quay ra đánh nhau. Kết cục Thượng thắng Đàm. Đàm sai người cầu cứu với Tào Tháo. Tháo mới nhân thời cơ hiếm có này, quay binh trực chỉ Hà Bắc đánh Viên Thượng tại Nghiệp thành. Lúc này vào năm Kiến An thứ 9, đánh từ thời điểm tháng hai đến tháng chín thì Thượng thua, bỏ thành chạy vào rừng. Viên Đàm nhờ Tháo chiếm lại Đông Quận thuộc Ký Châu làm bàn đạp tiến công Viên Thượng. Thượng lại phải chạy đến nương nhờ Viên Hy.

Năm Kiến An thứ 10, Tào Tháo tìm cớ triệt hạ Viên Đàm rồi tiến lên xử lý và xử lý nốt vị trí căn cứ của Viên Hy. Hy, Thượng thua, lên ẩn náu với bộ lạc Ô Hoàn. Đương đầu với Ô Hoàn mãi không xong, vì quân Ô Hoàn là Sơn Tặc với giải pháp Du kích đánh rừng khiến Tào Tháo thiệt hại vô kể. Sau nhờ kế hoạch Điền Trù, quân Ô Hoàn mới chịu thua. Thượng và Hy lại đào tẩu lên Liêu Đông ở với Thái Thú Công Tôn Khang. Các mưu sĩ của Tháo khuyên Tháo đánh Liêu Đông, Tháo cười mà rằng: quân ta đã mệt mỏi phải cho nghỉ ngơi, chờ Khang với anh em họ Viên thanh toán nhau lúc đó ta ra tay chắc thuận tiện và đơn thuần và giản dị. Quả nhiên ít lâu sau, Khang cho những người dân về gửi biếu Tháo hai chiếc thủ cấp của Viên Thượng và Viên Hy. Đến đây yếu tố họ Viên và Hà Bắc mới xử lý và xử lý hẳn.

6.4. Điền Trù

Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa, fan hâm mộ thường lưu ý đến Hứa Chử, Điển Vi, Mã Đại, Bàng Đức chỉ vì Hứa Chử xoay trần đánh Mã Siêu, Điển Vi liều mình cứu Tào Tháo. Mã Đại vâng lệnh cẩm nang chém Ngụy Diên, Bàng Đức quyết tử trận với Quan Vũ. Nhưng hầu hết đều quên một nhân vật: Điền Trù. Trong khi Điền Trù lại là người mang những ảnh hưởng to tát đến chính trị Tam Quốc chẳng kém gì Tào Tháo, Khổng Minh, Lưu Bị, Tư Mã Ý hay Đặng Ngải, Chung Hội.

Sở dĩ Điền Trù bị bỏ quên là tại fan hâm mộ chú trọng nhiều đến những thủ đoạn chính trị, những mưu mẹo chiến trận mà không ngó ngàng mấy đến những đại kế của thời đại. Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa ai cũng nặng về tâm ý truyền kỳ hơn là tìm hiểu lịch sử.

Điền Trù tuy không đánh trận chém tướng như Quan Vũ, Triệu Vân, Mã Siêu, tuy không bỏ vua lập vua, bàn mưu tính kế như Tào Tháo, Khổng Minh, Giả Hủ, Tuân Úc. Nhưng ông vẫn đáng kể là một trong những người dân trọng yếu nhất của thời đại Tam Quốc.

Trù nguyên quán Bắc Bình, sinh nhằm mục đích cuối đời Hán. Ông rất chăm chỉ đọc sách, luyện kiếm. Năm đầu Bình Nguyên, Điền Trù mới 24 tuổi, Đổng Trác ăn hiếp vua Hiến Đế ở Tràng An, thiên hạ loạn lạc, ông ra giúp việc cho Lưu Ngu. Ít lâu sau Điền Trù được vời về Tràng An thao tác. Khi trở lại quê nhà thì tình trạng đã thay đổi, Công Tôn Toản làm phản, chiếm vị thế của Lưu Ngu. Trù chống lại Toản, nhất định không chịu cộng tác. Cảm thấy khó yên thân với Toản, Điền Trù đem theo hơn trăm gia nhân chạy ẩn lên vùng núi Từ Vô. Tại đây ông lập kế hoạch khai thác đất hoang. Dân chúng quy tụ mỗi ngày mỗi đông.

Rút kinh nghiệm tay nghề cuộc khai thác này, Điền Trù phát hiện ra chủ trương đồn điền để tăng trưởng thế lực Trung Quốc ở những vùng biên duyên.

Vùng ông khai thác người đương thời gọi là tiên cảnh, ở đấy xã hội sống hoàn toàn trật tự, lễ nghĩa và sung túc.

Viên Thiệu sai người đến vời, Trù từ chối. Thiệu chết, Viên Thượng lại vời, Trù vẫn khước từ. Đến lúc Tào Tháo Bắc chinh Ô Hoàn liền cho triệu, thì ông nhận lời ngay. Môn nhân hỏi ông rằng: “Cớ sao lần trước cha con họ Viên mời ông không sở hữu và nhận, nay lại ra giúp Tào Tháo?” Điền Trù đáp: “Đó là yếu tố mà có lý giải ra những ông cũng chưa ý thức ngay được”. Sau khi đàm luận với Tháo, Trù được Tháo coi như làm cố vấn. Cố vấn cho họ Tào, Điền Trù lập lại kế lớn là:

a) Khuyên Tào Tháo đánh Ô Hoàn từ mạn Lư Long.

b) Áp dụng chủ trương đồn điền.

Tào Tháo nghe, quả nhiên thắng lợi to.

6.5. Chính sách đồn điền là gì?

Ngược dòng sử, trở lại đời Tây Chu, ta thấy Tây Chu vốn là một bộ tộc nông canh đã vượt mặt Ân triều và mở rộng bờ cõi. Tây Chu sở dĩ thắng lợi là nhờ ở một chủ trương nông nghiệp tiến bộ. Tây Chu tổ chức triển khai nhiều tập đoàn lớn lớn vũ trang đi giồng cấy để vừa tiến công vừa chiếm đất cư ngụ, khai điền phá mương, vừa mở rộng thế lực quân sự chiến lược, vừa tăng trưởng thế lực chính trị và văn hóa truyền thống. Vừa đánh nhau vừa tự cung tự túc tự cấp. Điền Trù đặt tên cho chủ trương ấy là chủ trương đồn điền. Kèm theo nhiều kinh nghiệm tay nghề cùng hiểu biết của ông về địa lý, Điền Trù đã đem lại cho Tào Tháo một kế hoạch phá Ô Hoàn rất tinh vi.

Kế hoạch của Điền Trù đã xử lý và xử lý cho Tào Tháo hai nỗi trở ngại vất vả:

Thứ nhất: tiêu diệt lối đánh du kích của dân tộc bản địa du mục sơn dã Ô Hoàn luôn luôn làm tổn hại lớn cho lực lượng Tào Tháo. Tháo y theo kế hoạch, cũng cho tổ chức triển khai những tập đoàn lớn lớn võ trang khẩn thực, mang trách nhiệm đồn trú thường kỳ, một mặt đánh giặc, một mặt vỡ hoang xây dựng kinh tế tài chính nông nghiệp tiêu diệt du mục. Đi đến đâu, những tập đoàn lớn lớn võ trang khẩn thực đều vượt đất thành làng, đắp hào đắp lũy án ngữ ngay những cứ điểm quân sự chiến lược để dồn quân Ô Hoàn vào thế bất lợi.

Thứ hai: Giải quyết yếu tố lương thực cho quân Tào chống lại với tình trạng kinh tế tài chính nông nghiệp theo chính sách bộ khúc, thành phầm của loạn ly liên tục lúc bấy giờ.

Thấy công lao Điền Trù to tát, Tào Tháo muốn phong tước cho ông, ông không sở hữu và nhận, xin trở về nơi “thế ngoại đào nguyên” của ông để vui thú tiêu dao. Ông mất năm 46 tuổi. Sau này nhà thơ Đào uyên Minh có nhắc tới ông trong 2 câu:

– Văn hữu Điền tử xuân

– Tiết nghĩa vi sĩ hùng.

4549

Video Gia cát lượng mất ở đâu ?

Bạn vừa đọc Post Với Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về Review Gia cát lượng mất ở đâu tiên tiến và phát triển nhất

Chia Sẻ Link Cập nhật Gia cát lượng mất ở đâu miễn phí

Người Hùng đang tìm một số trong những Chia SẻLink Tải Gia cát lượng mất ở đâu Free.

Thảo Luận vướng mắc về Gia cát lượng mất ở đâu

Nếu sau khi đọc nội dung bài viết Gia cát lượng mất ở đâu vẫn chưa hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Ad lý giải và hướng dẫn lại nha
#Gia #cát #lượng #mất #ở #đâu